Thứ Tư, 25 tháng 4, 2012

Giấc Mơ_đọc truyện sex hay việt

Giấc Mơ

Tác giả: Bachim


Khi vô tình nghe mấy nữ đồng nghiệp trong phòng kể nhau nghe về mộng mị chiêm bao, anh giật mình. Bất chợt, anh nhận ra đã rất lâu, mình không có một giấc mơ nào. Bất kể đó là một giấc ngủ ngắn ban ngày hay cả giấc ngủ dài ban đêm. Anh không thể nhớ một chút gì. Trống trải hoàn toàn trong bộ nhớ của anh. Dĩ nhiên, anh không phải là một nhân vật ra gì để được đưa vào một phòng thí nghiệm Y khoa nào đó mà ghim mà gắn vào đầu những dây nhợ lằng ngoằng, xem anh thật sự không mơ hay chỉ đơn thuần vì anh không thể nhớ ra được khi tỉnh thức.

anh sex
truyện sex hay
phim sex hay
truyện ma kinh dị
Anh loay hoay với sự việc kỳ lạ xảy ra cho bản thân cả tuần vất vả. Anh chẳng dám hỏi ai, kể cả mấy thằng bạn thân nhứt, mà thật ra anh thì có mơ mà có bạn thân. Vợ anh thì khỏi bàn, cô ấy thậm chí không quan tâm tới chuyện anh có ngủ hay không nữa. Giá có một thằng con - dù nhỏ xíu - anh sẽ thầm thì với nó như cái gã trong truyện đời xưa nói thầm chuyện bí mật vào đất để chôn đi.
Loay hoay mãi, anh đâm ra khủng hoảng. Như một cơn bão đến từ từ, chậm mà chắc, lừ đừ mà mạnh dần lên trông thấy.
Anh thử cho đông hồ reo giữa đêm - vào nhiều giờ giấc khác nhau - thầm mong việc bất chợt thức giấc sẽ không làm anh quên béng cái chiêm bao vừa xảy ra - nếu nó có trong giấc ngủ của anh. Suốt một tuần sau đó, anh trắng tay, thua cuộc hoàn toàn. Không một tăm tích, không một mảy may. Những giấc mơ đã bỏ rơi anh thiệt tình, bỏ rơi mà không thèm một thông tin báo trước nào.
Anh đứng khổ ngồi sở. Sẵn sàng nổi cọc với bất cứ ai. Anh tin mình mắc một cơn bịnh khắc nghiệt. Vô phương cứu chữa.

Tự dày vò mình thêm một tuần, rồi một tuần nữa, anh đi tới một quyết định.
Nơi văn phòng anh làm việc ở lầu tư một cao ốc mười lăm từng, có một cửa sổ trông xuống sân sau một chung cư. Cái sân thường xuyên vắng ngắt bởi đa số dân cư ngụ nơi ấy là công nhân viên. Họ đi làm suốt ngày, đám con nít thì vùi đầu vào trường bán trú tới chiều. Anh ước lượng từ thành cửa sổ xuống tới cái mặt sân tráng xi-măng lúc nào cũng ướt át ấy cũng đâu mười hai mười ba mét. Một khoảng cách đủ để một người dù nhẹ cân một cách khó tin như anh phải đạt được thoả nguyện chấm dứt đời mình, khi lao ra từ thành cửa sổ.
Chắc như bắp.
Khỏi có vụ chấn thương sọ não hay dập ngực dập bụng sơ sơ.
Là xong. Khỏi phiền luỵ cả Nhà lẫn Nước. Ngành Y tế đâu rảnh mà phải bỏ tiền tài sức lực mà lo cho một công dân rệp bọ như anh.
Chẳng có gì để chuẩn bị nhiều ngoài một chúc thơ đơn giản và ngắn gọn. Chỉ để những đồng nghiệp trong phòng khỏi khi không dính vô rắc rối lãng òm.

anh sex
truyện sex hay
phim sex hay
truyện ma kinh dị
Đợi cho đám đồng nghiệp cả nam lẫn nữ rời phòng xuống ăn bữa trưa, anh đứng lên, bước tới cánh cửa, gài chốt. Phải tránh rủi ro cho thiên hạ, lỡ ra một kẻ nào đột ngột quay trở lại lúc anh đang leo lên thành cửa sổ. Lúc đó, rắc rối phát sinh, cái hình ảnh chẳng lấy gì làm đẹp đẽ của anh biết đâu sẽ ám ảnh không tha trong đầu óc kẻ kia. Điều đó thiệt chẳng nên.
Trước khi leo lên thành cửa, anh quay nhìn một lần chót nơi mình làm việc đằng đẵng năm năm trời. Quen thuộc đến nhàm chán. Anh chợt nhận ra một điều. Nếu cõi bên kia là có, và anh còn đủ thông minh để có hồi ức, có lẽ đây là nơi duy nhất anh sẽ nhớ. Ký ức thời sinh viên nhạt nhoà như bóng ma thoắt ẩn thoắt hiện. Mối tình duy nhứt lạt lẽo như nước ốc để nguội. Căn nhà trọ ở với vợ trước khi ly thân vỏn vẹn hai tháng anh còn chẳng nhớ được quét vôi màu gì. Người vợ tốc hành con nít sau một cơn say xỉn đang nguyền rủa. Chỉ chưa đầy sáu mươi ngày đêm đã đùng đùng cuốn gói về nhà Mẹ chờ ngày ly dị. Chẳng có gì đáng nhớ trong cái chuỗi ngày dài vô vị của đời anh.
Một cái gì thật ngậm ngùi buồn tủi dâng lên cổ làm anh muốn nghẹn. Anh cảm thấy khó thở. Anh vội vội vàng vàng đi như chạy tới thành cửa sổ. Leo lên, không nhìn xuống, anh cẩn thận một cách tỉ mỉ và chậm rãi, gài lại nút túi áo mà trong đó anh đã xếp làm tư lá chúc thơ viết ngắn gọn đại thể tự nhận hết trách nhiệm về hành động của mình, ngỏ lời xin lỗi cấp trên và đồng nghiệp về những công tác bị bỏ dở.

Ngước mặt lên bầu trời đang nắng gắt, anh hít rất sâu một hơi thở. Nhắm mắt lại và bước ra.
Trong khoảnh khắc và khoảng cách giữa cửa sổ với mặt sân xi-măng, trong anh nổ bùng một thứ gì có thể coi như chân lý.
Bất chợt, anh nhớ ra, anh đã thật sự vuột mất, trong một thời gian dài, những giấc mơ không chỉ trong khi ngủ, mà quan trọng hơn, cả khi tỉnh thức. Anh đã sống mà không còn mang trong đầu bất cứ một giấc mơ nào. Hy vọng, mộng mơ, là một cái gì cực kỳ xa lạ với anh. Anh chợt cười rú lên, mừng đến điên loạn khi tìm thấy cái nguyên nhân làm mình trở thành một người không đáng sống.
Những người có mặt gần nơi xảy ra vụ việc, đoan chắc với nhà chức trách rằng họ có nghe một tiếng rú thảng thốt. Tuy nhiên, căn cứ vào lá chúc thơ, và nhất là, cánh cửa khoá trái từ bên trong, người cán bộ công an phụ trách điều tra, kết luận đây là một vụ tự sát hoàn chỉnh. Người vợ - người thân độc nhất của đương sự - khai rằng đã không gặp mặt anh ta suốt ba tháng qua, cô vừa trở về sau chuyến du lịch bốn nước Âu châu kéo dài hai mươi ngày với bạn mình.
anh sex
truyện sex hay
phim sex hay
truyện ma kinh dị

Kho Báu_đọc truyện sex hay việt

Kho Báu

Nguyên tác ,Le Tresor

Tác giả: F. Tennyeon Jesse

Hè năm nay kéo dài, và chỉ đến những ngày cuối tháng 10, Brandon mới nhận ra hè đã hết. Thế rồi một cơn bão nổi lên, quét sạch vùng đầm, làm mặt nước yên tĩnh cau mày, nước ao chuôm gợn sóng, bứt những chiếc lá thường xuyên bị gió núi lay động, lìa cành. Sau cơn bão, thời tiết oi bức cũng biến mất, chỉ còn mặt trời nhợt nhạt mùa Đông dãi sáng mà không nóng trên cánh đầm lầy. Vài chiếc lá còn bám được vào những lá móc của loài dương xỉ. Khi mở cửa sân sau, ông mới nghe tiếng quàng quạc của lũ quạ và thấy những khối đen đậu trên những cành cây trơ trụi.

anh sex
đọc truyện sex hay
phim sex hay
truyện ma kinh dị
Tới tuổi này Brandon mới cảm thấy nỗi hoài cảm mênh mông, xa vắng vào những ngày cuối năm, biểu tượng nỗi buồn tàn thu của những năm xế bóng cuộc đời. Ngay khi ông ngoái cổ lại coi đoạn đường mình mới đi qua, ông mới nhận ra dãi nước xanh dương phía sau đám lau sậy um tùm, màu nâu nhạt. Đồng thời ông cũng nghe những chú chim cổ đỏ đang líu lo những khúc lý mùa Đông cao vút. Ở vùng đầm lầy này luôn có những cảnh quan đẹp mắt mà ông cảm thấy mình thực sự yêu thích.

Ông đã băng qua được cái sân sau rộng thênh thang, ngập bùn, đến gặp bạn ông đang đứng trên ngưỡng cửa nông trang. Ông bạn tốt Miles thân mến. Dù mưa hay nắng. đông hay hè, ông bạn chỉ nghĩ đến những chuyện thực dụng. Nhưng hôm nay, cái khuôn mặt đỏ au của ông hơi xạm đi vì gió, mất đi phần nào nét vui vẻ yêu đời thường ngày. Tuy nhiên sự thay đổi này cũng không hẳn là tâm trạng thông thường của con người vào cuối hè sang thu. Brandon hỏi:
- Ông có thấy Tom và Jack đâu không? Lẽ ra hôm nay họ phải cày khu đất 5 hec-ta mà tôi chẳng thấy họ ở đó. Dẫu sao thì ta đã giao khoán cho họ và tin họ.
- Tom và Jack à? Không, tôi không thấy. Chẳng có gì quan trọng phải không? Có lẽ họ đang làm những công việc không tên của nhà nông, ở chỗ nào đó trên khu đất mà ông mê đó, như bừa ải, bón vôi, xông khói, gieo hạt...
Nhưng nét mặt chủ nhà vẫn có vẻ khác thường.
- Từ hai hôm nay, họ xử sự rất kỳ cục, kỳ cục đến độ quái gở. Nghĩa là từ khi họ đào được những đồng tiền đáng nguyền rủa, sau cái hố lớn trong khu đất. Sáng nay họ xử sự với nhau rất kỳ lạ, khi họ đi với nhau, tôi chẳng hài lòng chút nào. Chắc giữa họ đã có chuyện gì xảy ra, ông Bill à.
Brandon mỉm cười, nhồi một cối thuốc, rồi nói:
- Tệ thật! Tại sao hai người không nghe nhau nữa nhỉ? Chắc là tiền bạc đã chi phối đầu óc họ. Xưa nay vẫn vậy, tiền bạc chia rẽ con người. Rồi anh coi, sẽ đúng như vậy.

Nhưng trong thâm tâm ông, ông cũng thấy một việc lạ thường hơn: ai cũng biết Tom và Jack là hai người bạn chí thiết trong làng, cao thượng hơn cả tình bạn giữa Damon và Pythias (nhân vật trong thần thoại Hy Lạp) nữa.
Hồi nhỏ, hai người cùng học một trường, cùng chơi trong đội túc cầu mùa Đông, cùng trong đội dã cầu mùa hè, cùng trượt pa- tin với nhau, cùng đi săn vịt trời, cùng câu cá, cùng chiến đấu với nhau trong một đơn vị ở cuộc chiến vừa qua, cưới hai chị em sinh đôi. Cũng có bằng chứng vững chắc là họ không hề xích mích với nhau. Không người nào có biệt tài gì, để vì làm nghề khác nhau mà xa nhau nhưng trong trang lứa cùng giai cấp của họ, thì quả thực họ đứng đầu trong quận. Hai người rất lương thiện, lịch lãm và thông minh. Tuy suy nghĩ có hơi chậm nhưng không kém phần mưu mẹo và vững chắc. Tom nhỏ hơn một tuổi, không cường tráng bằng, nhưng rất nhanh nhẹn. Jack to con vạm vỡ hơn, khỏe như một người Thổ. Tom dễ nổi nóng hơn nhưng cũng mau nguội. Jack thanh thản bình tĩnh hơn, âu cũng là đặc tính chung của những người có sức khỏe phi phàm. Thật đáng buồn và quái đản, chỉ vì đào được vài đồng bạc cổ, han gỉ mà họ chia lìa nhau.
Brandon gợi ý cho ông bạn Miles.
- Tại sao ông không nói cho họ biết những đồng tiền cổ han gỉ ấy chẳng còn giá trị gì?
- Tôi đả nói rồi, nhưng ông thừa biết là những lớp người đó luôn đinh ninh rằng, những cổ vật đào được đều có giá trị lớn, và Bảo tàng Anh quốc sẽ trả cho họ một món kếch sù. Hơn thế nữa, tôi còn muốn hướng dẫn cho họ hiểu về đồ cổ. Nhưng tôi không hiểu nổi họ lại còn tranh chấp nhau về vài đồng bạc đó nữa. Tôi nghĩ là họ nên chia sẻ với nhau cái mà họ gọi là báu vật ấy là đã đủ sung sướng rồi. Hơn nữa ngày công của họ chưa hoàn tất, từ xưa tới nay họ không bao giờ nghỉ sớm. Họ luôn nghỉ sau khi đã hết giờ làm việc. Họ thuộc thế hệ công nhân cũ không bao giờ bỏ giở công việc.
Vừa nói xong thì một gia nhân hốt hoảng chạy vào hành lang, hổn hển la lớn:
- Xin ông chủ đến vựa lúa ngay. Tom và Jack đang đánh nhau, họ quyết giết nhau...
Ông Miles quay gót, tức tốc chạy xuyên qua nhà, qua vườn hết tốc độ. Brandon tất tưởi chạy theo ông bén gót.
Cái nhà kho rộng thênh thang nằm chênh vênh bên sườn đồi. Một công trình bằng gỗ sơn đen, mái ngói đỏ. Sát phía Tây nhà, ánh chiều tà giát vàng lên những cây rơm mới.
Hai người chạy leo lên sườn đồi dốc. Đất ẩm, cỏ rậm ôm lấy bước chân họ. Brandon lướt qua mặt chủ nhà vốn hơn ông vài tuổi, lao nhanh vào vựa lúa như tên bắn.

Trước tiên, ông thấy mọi vật trong kho chìm trong bóng tối mờ xỉn. Cái bóng tối mờ mịt vì bụi do cuộc ẩu đả tung lên, mà ta chỉ nhận ra nhờ bụi cuồn cuộn trong những tia nắng từ cửa chiếu vào. Mùi súc vật, mùi đất nện, mùi cỏ khô bốc lên, hòa quyện trong cái bóng tranh tối tranh sáng của kho nông sản. Những xà nhà, những cột gỗ hiện ra rõ rệt trước nhất trong khoảng tối nhà kho. Vì đã quen với bóng tối dần dần, Brandon nghe những tiếng rên dễ sợ và một cú đập sắc gọn. Hai người đang đánh nhau trên nền nhà bằng đất nện. Miles và Brandon lao tới đó. Người khỏe hơn vừa rên la vừa đập như mưa lên đầu đối thủ. Người yếu hơn rên rỉ như hết hơi rồi gục xuống nền đất, bất động.
anh sex
đọc truyện sex hay
phim sex hay
truyện ma kinh dị
- Đẹp nhỉ? Thôi đủ rồi! - Ông Miles la lớn rồi nắm chắc cánh tay Jack - Anh điên rồi, anh sẽ giết Tom mất!
Jack quay bộ mặt điên dại về phía ông chủ.
- Tên ấy đáng chết lắm, một con chó ghẻ ! Nó là thằng trộm cắp, đúng một tên trộm cắp.
- Tom mà là quân trộm cắp à! Anh tệ quá! Anh chỉ nên đánh nhau với kẻ nào thật sự đã trộm cắp của cải của anh thôi.
- Nhưng đúng là Tom trộm cắp thật. Hắn đã lấy hết số tiền cổ chúng tôi đào được, và giấu ở đâu đó mà không chịu nói ra. Hắn nói láo là không lấy.
Brandon đang quì cạnh Tom xem xét. Tom bất tỉnh, mặt nhễ nhãi những máu. O^ng ngước mặt lên nói:
- Anh đã đánh anh ta gần chết rồi. Dù có thật như thế chăng nữa, anh cũng phải xấu hổ chứ? Tôi cũng chẳng tin Tom lại đi giấu mấy đồng tiền. Tom chưa bao giờ làm những việc như vậy. Ôi trời! Coi này ông Miles. Coi hai nắm tay của Jack. Cạy tay hắn ra.
Nói rồi, Brandon tiến về phía Jack đang nhìn ông trân trối, hai tay nắm chặt. Khi ông chủ và Brandon cạy tay Jack ra, anh không phản ứng. Mỗi tay Jack đều nắm một lưỡi đá hỏa thạch mài sắc, cả hai lưỡi đều dính máu Tom. Brandon nhìn đôi mắt thất thần của Jack, không nói gì. Ông nghĩ rằng chẳng còn lời lẽ nào thức tỉnh được lương tri của con người chẳng còn biết gì lẽ phải nữa, ông nói với bạn:
- Các ông phải đưa Tom ra ngoài, ông và Jack khiêng anh ấy ra. Tôi sẽ đi kiểm tra một vòng quanh nhà kho.

Lạ thay, Jack nghe lời ông ngay. Anh đưa tay nhẹ nhàng nâng đầu Tom lên, cái đầu anh vừa đánh đập. Anh và ông Miles khiêng người ngất xỉu qua luồng ánh sáng ở cửa, đưa ra ngoài trời quang đãng.

Brandon ngồi trên cái xô lật úp ông thấy trong tầm tay. Nhìn thấy máu là ông thấy xây xẩm mặt mũi. Đó là một nhược điểm mà ông không khắc phục được, bởi vậy lúc này ông cũng chẳng ân hận vì mình mềm yếu, ông cho rằng chính bầu không khí trong nhà kho và cơn giận Jack khiến ông cảm thấy vạt nắng chiếu nghiêng xuống chỗ họ đánh nhau cũng nhạt nhòa.
Thường thì Brandon không phải loại người đa sầu đa cảm, nhưng trong suốt cuộc đời, ông nghiệm ra rằng, ông luôn tự chuốc lấy một cách kỳ cục, những cơn khủng hoảng tâm thần. Cứ suy nghĩ chuyện chẳng liên quan đến mình rồi sinh ra sầu khổ.

Những lần khủng hoảng chìm trong suy tư không phải do ông cỏ những thiên tài phân tách tinh thần, mà vì một ngoại lực, vì ông hiểu biết hơn nhiều người khác, vì ông còn hiểu được nhiều điều trên lẽ thường. Ông có khả năng thấu thị, hiểu tức khắc ngay được đối tượng: thí dụ một cái cây quen thuộc, một hàng sách hiện ra trước mắt ông dưới một chiều không gian bất thường, như thể nhãn quan về thế giới biến đổi để cho ông thấy một chiều chưa biết rõ. Như thể cái cây, hàng sách không còn bản chất thông thường của chúng, mà thình lình trở nên có góc cạnh phóng vào không trung. Lúc đó thì ông thấy bình thường. nhưng lúc nghĩ lại ông mới hiểu, ông thấy quay cuồng xây xẩm khi nhìn thấy nhiều chiều của sự vật. Trong cái không gian nhiều chiều ấy có một luồng ánh sáng hướng dẫn ông, ông trực giác được ngay bản chất sự vật và hiểu rằng những hiểu biết của chúng ta thường là bất toàn. Ông hiểu rằng có những động lực thúc đẩy con người ta hành động thật kỳ cục, không thể giải thích được. Đôi khi ông lại thấy một quan điểm mới về một vấn đề mà ông không cố ý tìm cách giải quyết.

Ông ngồi trong nhà kho mà như bị thôi miên trong cảm giác này. Ông bắt đầu cử động và tự nhủ có thể do thần kinh ông bị xáo trộn và do vệt nắng chiếu qua cửa. Ông đứng dậy và thị giác của ông như đang nhìn theo một chiều kính mới, ông thấy một cái mũ dạ nằm dựa vào tường nhà kho, gồ lên một cách kỳ lạ. Ông lượm nón lên, vành nón có cài một cái lông chim tu hú, đúng là nón của Tom rồi. Chiếc mũ nặng lạ thường, suýt nữa ông đã tuột tay làm rơi nó, ông lần tay giữa hai lớp vải lót mũ, ông cảm nhận được những khấc phân cách đều nhau của một cọc tiền. Vậy là Tom đã nói láo, đã giấu tiền. Một cảm giác tức giận giống hệt như cơn tức giận khi ông nhìn thấy lưỡi đá trong tay Jack.
Hai tay bưng cái nón, ông nặng nề bước ra khỏi nhà kho, băng qua vườn vào một phòng nhỏ nơi Miles dùng làm văn phòng. Ông ngồi xuống bàn, dẹp gọn những giấy tờ và sổ sách của chủ nhà sang một bên. Ông chuỗi cọc tiền cong queo như một khúc rắn từ cái mũ ra. Nó đây, trước mặt ông, chồng tiền cong queo như một cái chuôi dao, nguyên nhân hất hòa giữa Jack và Tom. Những đồng tiền quá cổ, đã bị oxy hóa làm chúng phồng lên, chỉ còn nhìn thấy cái đầu của một Hoàng đế đúc nổi trên đó (không nhận ra là vị Hoàng đế nào) nhưng chắc chắn là một Hoàng đế La Mã. Nhìn những đồng tiền hư nát này, khó mà tin được lại là nguyên nhân anh em đánh nhau đến chí mạng.

Ngay lúc đó một cảm giác lạ tê rần chạy từ chân lên đầu ông, ông không thể nhúc nhích được nữa, dù là nếu căn phòng tự nhiên bốc lửa, ông cảm thấy lạnh, cảm thấy nhột nhạt như có kiến bò khắp người. Sau đó ông mới nhận ra ông đang cầm trong tay cái vật gở: từ lúc nhìn thấy nó ông đã ghê tởm. Cái cổ vật xui xẻo đến độ mỗi khi ai đào được cũng đều chuốc lấy đau khổ.
Ông ý thức rất rõ những cổ vật được đưa lên ánh sáng do những lưỡi cày, khi câu hay quăng chài dưới biển, bị rơi hay bị đánh giạt vào bờ lâu hàng thế kỷ. Những ai tìm thấy chúng đều bị tán gia bại sản. Ông nghĩ rằng nên liệng những thứ đó vào những nơi mà con cháu chúng ta trong tương lai không bắt gặp chúng. Cột đá vào chúng rồi liệng xuống biển, xuống ao đầm hay một giếng hoang chẳng hạn.
Ông cố chống lại cảm giác sợ hãi đến tê liệt, ông đã dẹp bỏ được nó nhanh gọn, ông đã vận dụng ý chí để tự chủ và trở về với thực tại. Ánh nắng chiều tràn ngập căn phòng, ông vẫn còn run nhưng cảm giác nhột nhạt như kiến bò khắp người đã dần dần hết. Ông thả rơi cọc tiền lên bàn. Đưa tay lên xoa cái trán đang rịn mồ hôi lạnh. Ông tự nhủ, vài phút nữa ông sẽ làm việc phải làm, ông từ từ đứng dậy...
Một ý tưởng hãi hùng xâm chiếm ông, ông dùng cả hai tay cầm và đếm cọc tiền. Ông đếm đi đếm lại 3 lần, trong thâm tâm vẫn hy vọng là mình đếm sai vì ông lại đang bối rối. Dù đếm theo cách nào chúng cũng là 30 đồng bạc chẵn, ông nhảy xa cái bàn, chân tay run lẩy bẩy, miệng lẩm bẩm:
- Ba mươi đồng bạc trắng... Đúng 30 đồng bạc Juda bán Chúa!
anh sex
đọc truyện sex hay
phim sex hay
truyện ma kinh dị

Vật Tội Chứng_đọc truyện sex hay việt

Vật Tội Chứng

Nguyên tác: Le Corps Du Délit

Tác giả: Wibur Deniel Steele

Daniel sinh ra ở một trong những ngôi nhà ở Nouvelle - Angleterre, mỗi khi đi qua người ta đều thốt lên “căn nhà khủng khiếp”. Nhưng vào cuối thế kỷ thứ 19, căn nhà đã cổ, người đi ngang qua lại trầm trồ “thật là một kỳ công kiến trúc”. Các cửa sổ mới lịch làm sao, vòm nhô cao này, nhiều bộ phận điêu khắc bằng đá này. Thật là vào thời đó, người ta biết xây nhà đẹp.

anh sex
đọc truyện sex hay
phim sex hay
truyện ma kinh dị
Có thể họ nói riêng về ông Dan Kinsman, cha Daniel: “Là một trong những người biết xây dựng cuộc sống của họ vào thời đó”.

Khi Daniel về nhà nghỉ hè sau năm học đầu tiên ở trường trung học xa nhà, cậu thấy căn nhà không có gì thay đổi. Vẫn những gờ tường nặng nề, vẫn những tháp đưa ra, vẫn những cửa sổ vuông, tròn, cái cổng trên đường xe vào. Cả khu nhà núp gọn ghẽ dưới những cây dẻ nâu màu sô cô la cao vút. Cậu nói:
- Đây là nhà mình, chẳng giống một cái nhà nào của bạn bè.
Khi chủ ý tìm hiểu về cha mình, đã có lần cậu tưởng như đã tìm ra được điều bí ẩn về cha mình mà cậu đã đặt ra từ hồi niên thiếu: “Bố mình thật cũng chẳng giống bố của một bạn nào”.
Năm nay Daniel mới hiều ra rằng cha các bạn cũng như cha mình, chỉ có mối quan tâm duy nhất là tìm đủ mọi cách để tăng thu nhập, giống hệt như những học sinh lớp trên mình luôn nghĩ tới tương lai nhưng lại không kiên nhẫn, cần cù chịu khó nhưng lại rất giao động. Họ chẳng kiêng nể một thứ gì nếu không tự cảm thấy cần phải dừng lại.
Trái lại, cha của Damel lại tỏ ra bằng lòng với số phận, bằng lòng ở nhà này cũng như những năm trước, bằng lòng sử hữu những gì đã có, vẫn có cùng những sở thích gần như truyền thống. Vẫn thích đi bách bộ, đọc sách, sử dụng kéo tỉa cây và lưỡi cuốc xới, dùng cần câu thường và nuôi chó. Ông khỏe mạnh, 50 tuổi mà vẫn đứng thẳng, mái tóc dày đen nhánh, hàm răng còn nguyên vẹn phô ra mỗi khi ông cười. Thật kỳ lạ!
Và Daniel bất chợt hiểu ra rằng bố cậu cũng không có tham vọng... nghĩa là, về vài phương diện, con trai thấy bố mình kỳ cục. (Daniel không thấy được những phẩm chất của ông nên cho đại là như vậy.)
Daniel như muốn phá lên cười vì anh thấy mình đã là một thanh niên mà cứ để việc không hiểu bố mình canh cánh bên lòng thì không nên. Ngoài việc ông tỏ ra quá nghiêm túc đối với cậu trong suốt 15 năm qua, cậu còn vui như muốn nhảy cẫng lên, khi cậu khám phá ra cái khác biệt giữa cha cậu và cha các bạn: cái khác biệt mà cậu chấp nhận được và dùng nó để giải tỏa tâm tư mình, cậu cho là cha cậu không thích tiền.
Vâng, cậu đang nhảy nhót vui sướng cùng bố vừa đi vừa nói chuyện trên lối đi đầy cỏ, hai bên viền hoa tú cầu, vào buổi chiều đầu tiên tháng Sáu. Mẹ cậu ngồi cạnh chiếc cửa sổ cao đưa mắt nhìn theo hai bố con anh, miệng nở nụ cười nhưng kém tươi. Cũng thật kỳ lạ, cậu luôn ngưỡng mộ dễ dàng người mẹ bệnh hoạn xinh đẹp của cậu. Cậu luôn thổ lộ mọi ý nghĩ thoáng qua đầu mình với mẹ, dù cậu thấy chẳng có gì quan trọng. Hay cậu đã từ bỏ bản ngã của mình dễ dàng yêu mến và làm bạn với cha mình, người có nét đẹp đen sạm, u ẩn mà cậu giống hệt cũng hết sức kỳ lạ.

Và hôm nay ta có thể nói một phép lạ đã xảy ra, sau một năm đi học vắng nhà, giấc mơ của anh đã thành hiện thực: anh đang đi dạo và huyên thuyên nói chuyện với bố anh và bố anh cũng cảm thấy thanh thản trìu mến anh, như thể là hai người bạn. Họ đang ước tính vụ thu hoạch khoai tây trong vườn, hoặc người ta xếp được bao nhiêu đống rơm để sẽ xếp thành cây lúc ngày tàn. Cùng cười khi đánh một vòng quanh trại nuôi những con chó giống spot. Cùng chào thân thiện bác sĩ Martin đứng bên vườn. Và sau cùng chính là phép lạ của phép lạ, hai bố con cùng về nhà, tay trong tay cùng lên tận lầu 1 hỏi mẹ bữa ăn chiều sắp xong chưa, như thể chỉ có bà chủ nhà yếu đuối bệnh hoạn này mới có thể trả lời thỏa đáng.
Đúng là một ngày đầy phép lạ, mùi rượu thuốc bay đầy trong gió. Bà ấy đi xuống đón họ, tự mình đi được, coi có vẻ linh hoạt lên một chút, má ửng hồng, hai mắt sáng long lanh, kỳ tích này làm hai bố con họ rất đổi ngạc nhiên. Và tối nay, ba người ngồi ở bàn ăn thay vì chỉ có hai cha con như thường lệ. Và như một giấc mơ tiếp nối một cơn ác mộng. Giấc mơ được sắp đặt trước, bắt đầu bằng những điềm báo rất hứa hẹn, tươi sáng. Giấc mơ không chấm dứt cùng bữa ăn. Ăn xong bà ra theo hai bố con ông ấy, như muốn chia sẻ phép lạ với họ. Hai bố con từ nay đi với nhau tay trong tay và cuốn theo bà đi.
Cảnh mặt trời lặn thật đẹp, cả một góc trời ánh lên màu tím nhạt sau hàng cây hạt dẻ đang nhú lá non. Dan Kinsman bắt đầu nói, nhưng không câu nào gãy gọn vì ông mắc cười mỗi khi bà Vivian làm một cử chỉ ngồ ngộ. Còn Daniel, chấp nhận các sự việc lạ lùng này một cách thản nhiên. Và bà Vivian Kinsman thì như một công chúa đã được giải bùa, trở về vương quốc của vua cha, đang chỉ bảo cho bố con anh con đường phải theo. Bà cười không dứt, cười nhiệt tình và truyền cảm... Đến chỗ một bờ rào, bà nói:
- Em thích những bông hoa này quá, anh Dan, em thích bồn hoa này. Em chưa bao giờ thấy những bông hoa nào đẹp như vậy!
Khi đến trước những bông hoa mỹ nhân, cao bằng người lớn, mà bố Daniel rất hãnh diện, bà đưa tay lên đè lấy ngực như sợ sệt.

Bà thấy con spot và lũ chó nằm sưởi ấm trước chuồng. Tiếng bà la lên, giọng hơi khác lạ:
- Anh phải coi kỹ chúng, coi hết.
Ông Dan vừa trả lời vừa cười để trì hoãn:
- Con spot bị xích kỳ này nó cứ kẻo căng dây và...
- Ông đừng có đem chúng đi trấn nước nữa. Cứ nghĩ tới là tôi không chịu nổi...
Cái giọng the thé của bà cần phải trả lời để lấn lướt ngay.
- Chắc chắn là không, em Vivian ạ. Tôi sẽ giữ lại hết để nuôi. Trừ phi có người nào rất muốn mua một con, và tôi xác nhận được nhà đó nuôi chó tốt.
Mặt trời khuất sau đám rừng xa xa, lúc đó bố mới bồn chồn nói:
- Chỉ vài phút nữa là trời se lạnh đấy em ạ, Vivian.
Bà ấy theo về nhà ngoan ngoãn lạ thường. Khi đến tận bậc thềm cửa bà mới bảo chiều nay mang cho bà vài bông mỹ nhân vào phòng.
- Em muốn sáng mai thức dậy trông thấy chúng, anh Dan, ba bốn bông là đủ.
- Tôi sẽ hái cho em một ôm, cưng ạ. Anh sẽ đi chọn ngay.
Daniel đưa cánh ta ra đỡ mẹ. Anh có cảm tưởng hôm nay mình lớn hẳn lên, vì bố anh đã đi khỏi đây. Bà đi ra phòng khách, ở đó có lò sưởi. Khi Daniel đã đốt đèn, anh quan sát cái bóng trắng của mẹ ngồi thụp, lọt thỏm trong cãi ghế bành của bố. Anh nói:
- Hôm nay mẹ có vẻ vui.
Bà không trả lời, mắt nhìn chăm chú vào lò sưởi, và mặt bà rạng rỡ như một ngọn lửa. Và trước khi anh chịu suy nghĩ cho ra tại sao, anh tha thiết hỏi ngay:
- Mẹ có hạnh phúc ở đây với bố và con không?

Nghe hỏi vậy, bà ngồi thẳng lên ghế, nhìn thẳng vào mắt cậu con trai và trả lời chắc chắn.
- Có mẹ luôn hạnh phúc - Rồi sự chắc chắn biến thành vui vẻ khi bà tiếp. Tại sao ý đó lại nảy ra trong đầu con vậy? Có, mẹ hạnh phúc lắm.
Rồi bà lại tự thả mình rơi xuống ghế nệm và gấp rút nói tiếp:
- Bố con là một thiên thần, con ạ, nhưng hơi chậm. Đi tìm bố con và bảo bố con lấy hoa nhanh lên.
Khi bố cậu đã nói lấy một ôm là ông sẽ làm như vậy, ông đã hái được một bó lớn. Nhưng các cánh hoa đã cụp lại, chuyện đó không quan trọng vì bà Vivian muốn sáng mai các bông mới xòe ra. Chính vì thế mà ông còn đứng đây suy nghĩ, sắp xếp cho bó bông ngay ngắn vào lúc mặt trời lặn.
Và ngay khi con trai ông, Daniel, gặp ông, cậu cũng có vẻ trầm tư, đến nổi cậu hỏi ông mà không ngẩng mặt lên, mắt vẫn nhìn dưới đất.
- Bố ơi, có phải mẹ sống ở đây lâu hơn ở Kennelbridge phải không bố?
Ngày hôm nay, sao có nhiều bất ngờ xảy ra cho Dan Kinsman quá, ông chỉ hơi quay đầu lại rất chậm rãi để quan sát con ông.
- Ở đây mẹ con hạnh phúc hơn - ông trả lời nhẹ nhàng.
Cậu bé thắc mắc về chuyện này ngước mắt lên nhìn bố, trời chạng vạng tối nên cậu chỉ nhìn thấy ông như một bóng đen, khi họ đi vào chỗ bóng cây, cái bóng đen của bố cậu vừa méo mó vừa được phóng lớn lên, nổi bật giữa bóng sẫm màu máu của những bông mỹ nhân và bóng sẫm của bồn hoa. Cậu đã quên điều thắc mắc của cậu, cậu nhướng to đôi mắt, ông bố hiểu rõ cậu và suốt cả buổi chiều ông vừa sợ vừa hy vọng cậu con sẽ có cử chỉ này. Đi được một khúc nhà, ông quay lại gọi.
- Daniel, con trai bố ơi. Rồi ông đưa tay ra cho con nắm, chẳng để ý gì đến cái bó bông màu máu, và con chạy đến chỗ ông.

Mình lên 15 tuổi và sắp thành người lớn để làm gì nhỉ. Tại sao mình không chỉ 10 tuổi và là một cậu bé nhỉ, hoặc chỉ lên 5 tuổi để làm một em bé nhỉ.
Khi Daniel chạy qua bố, chân cậu tê rần như có kiến bò và ớn lạnh dọc theo xương sống. Cậu lao vào chỗ ống khói, nơi lúc nãy cậu tạm biệt mẹ đi gọi bố. Cậu loạng choạng, đưa hai tay bụm mặt, khóc nức nở rồi mới nói
- Mẹ ơi... Mẹ ơi... Tại sao đã nhiều lần con sợ bố?
Mẹ cậu luôn trả lời những câu hỏi này, ngay sau khi cậu đặt ra. Nhưng lần này bà giữ im lặng, cái im lặng của người mẹ làm cậu sợ và xấu hổ kín đáo về việc sợ bố mình. Và cậu càng sợ hơn nữa khi nghe bước chân bố cậu bước gần tới cửa.
- Mẹ ơi, xin mẹ nói cho con biết. Cha con đã làm gì hả mẹ? Một chuyện kinh khủng, một chuyện đáng ghét?
Bà mẹ chẳng trả lời, chẳng một tiếng cũng chẳng cử chỉ, vì chẳng còn đủ giờ để dạy cậu bất cứ bài học nào. Một cái cửa trong nhà đã nhẹ nhàng mở ra và đã có ai đó vào nhà.
Daniel đứng dậy và quay lại, cố thu một chút can đảm. Cậu chẳng biết tại sao cậu lại đưa hai cánh tay ra chặn bố cậu lại và la lên.
- Không, bố đừng vào, đừng vào mà bố.
Qua đôi mắt nhạt nhòa nước mắt, cậu nhìn thấy đôi mắt bố không nhìn mình mà nhìn mẹ. Cậu hiểu trong họng cậu đang có hai yếu tố đấu tranh với nhau: cái mạnh hơn là cảm giác đau nhói nóng bỏng, cảm giác nhẹ hơn là một niềm hy vọng dâng lên.
Cũng giống như nhiều lần có chuyện khác, chỉ vài giây là bố lên tiếng trước.
- Đó là lý do con nói những điều vừa rồi với bố, rồi khóc nức nở và trốn chạy sự thật. Như vậy không phải là cách cư xử kỳ lạ của con trước đây, phải không?

Người chồng có vẻ rung động hơn người con, vì khi nhìn cách cư xử của bà Vivian suốt chiều nay, ông nghĩ bà ấy như cây nến sắp tắt, chỉ lóe lên vài tia le lói trước khi ngủm.
Daniel lại nghĩ khác, khi quay lại, cậu nghĩ mẹ cậu đã chết sững trong ghế, cậu xỉu luôn.
Bác sĩ Martin đã phải vất vả chăm sóc cậu nhiều ngày.
Sau buổi chiều dự đám tang, ông ghé thăm gia đình Dan, ông vốn thân thiết xưa nay. Ông thấy Dan chỉ ngồi một mình. Ông hỏi:
- Daniel đâu?
Vì câu hỏi của bác sĩ quá thân mật nên Dan có vẻ nghi ngờ, ông trả lời:
- Tôi không biết. Có lẽ nó chỉ ở gần đâu đây thôi.
Ông trả lời mà quay mặt đi chỗ khác.
Cũng dễ hiểu thôi vì ông vừa chôn cất vợ mình xong, người vợ ông đã sống chung hơn 20 năm. Chắc ông muốn ở một mình để hoài niệm. Ông bác sĩ tự trách mình và cho mình là đã hành động nông nổi rồi cáo từ.
Nhưng về tới nhà, ông bác sĩ băn khoăn tự trách mình, khi thấy Daniel đang im lặng, suy tư, đi đi lại lại trên bậc thềm dài. Bác sĩ thấy việc này vừa kỳ bí vừa làm ông bối rối nên ông không biết phải làm gì, nói gì. Tình thế càng khó xử hơn khi cậu ấy nói vài lời về thời tiết, và dã cầu.
Rồi cậu nói nhanh, gọn:
- Bác sĩ Martin, mẹ cháu có hạnh phúc khi sống ở đây với bố cháu và cháu hơn là ở Kennelbridge không?
Đôi khi đàn ông cũng cần phải ăn nói lưu loát. Đó là trường hợp của Dan Kinsman ba hôm trước và bây giờ là hoàn cảnh của bác sĩ Martin.
- Coi kìa cháu, mẹ con đã sống ở Kennelhridge và ở đây với bố con cháu ít ra là 1 0 năm. Con nghĩ gì mà hỏi như vậy?

Sau đó, ông bác sĩ cảm thấy ngạc nhiên, đôi mắt bất an của Daniel cứ chằm chằm theo dõi ông. Mặt trời đã lặn chỉ còn một mảng ráng hoàng hôn phía trời Tây, ông lại càng ngạc nhiên hơn nữa về tính nhạy cảm và khôn ngoan của cậu thiếu niên. Cậu không nhắm mục đích riêng tư nào và ý tưởng của cậu rất độc đáo nên ông bác sĩ cảm thấy kém vui. Cậu bé thì có vẻ như chưa muốn rời nhà ông.
Màn đêm đã xuống, bác sĩ Martin lại qua nhà Dan Kinsman. Ông thấy bạn ông đang đứng ngoài sân, đầu hơi cúi xuống, hai tay chắp sau lưng.
- Anh Dan này, anh nên nghĩ xem thằng nhỏ đang ở đâu. Nó đang ở bên nhà tôi ấy. Tôi e là đã muộn rồi.
Dan nghe, vẫn đứng thẳng như một cây trụ, chẳng nói chẳng rằng. Bác sĩ cho rằng Dan đang gặp cảnh khó xử.
- Tôi không thể trả lời câu hỏi của cháu được, anh Dan. Cháu có vẻ như đang rối trí. Cậu ấy có nhiều điểm giống mẹ... Những điều chúng ta dạy cậu ấy yêu thương mẹ, những điều chúng ta làm có ảnh hưởng tiêu cực đến cậu, ý chí cháu hơi yếu, khiến bệnh của cháu lâu khỏi. Tôi cho rằng hiện giờ cháu đang lẩn thẩn, coi những chuyện cỏn con là quan trọng. Cháu cứ ngồi thừ ra đó. Nghe tôi, ông bạn già: cậu bé không muốn về nhà đã khuất bóng mẹ... đêm nay sau khi an táng mẹ... dường như cậu ấy muốn ở bên tôi. Bởi vậy, anh cho phép tôi chăm sóc cháu.
- Vâng.
Cái âm tiết duy nhất này được ông phát ra khàn khàn. Ông bác sĩ ra về, nhưng quay lại hai lần nhìn cái bóng đen vẫn đứng thẳng trong bóng tối, đầu hơi cúi xuống, hai tay che mặt. Ông giận? Hay buồn? Thế là sao? Ông nghĩ là Dan muốn chết hơn vì chẳng biết xử trí với chuyện này như thế nào.
Nhưng đâu đã hết với ông bác sĩ. Sau đêm đó. ông đã âm thầm vạch ra những kế hoạch đề nghị bố con cậu bé đi nghỉ hè ở đâu đó đều tan biến. Các học trò của trường cậu đang tham dự một trại hè trong núi. Sáng hôm sau, những vấn đề của cậu tạm thời được lãng quên. Dan sang thăm ông bác sĩ, ông hơi ngượng ngùng vì vốn không khéo che đậy.
- Ông bạn già, xin ông giúp tôi một việc được không? Hôm nay tôi bận, nhờ anh trưa nay dẫn Daniel ra ga.

Ông bác sĩ bằng lòng, ông không biết hai bố con chia tay nhau như thế nào. Vì khi ông sang thì cậu bé cùng với những va li đang đợi ở cửa, còn bố thì mắc bận ở đâu đó.
Ông bác sĩ vì thương cả hai cha con họ, nên che đậy rất khéo. Trong hơn một tiếng đồng hồ, cậu nói chuyện rất vui vẻ hết chuyện nọ đến chuyện kia. Việc cần một cuốn sách để đọc trong chuyến hành trình dẫn họ đến một quầy báo.
Thật là một dịp may. Tiếc thay, sạp báo chỉ có tiểu thuyết trinh thám. Liếc qua cái tựa sách, Daniel thấy không có cuốn nào cậu chưa đọc. Sau cùng. cậu chọn cuốn “Giết người”. Ông bác sĩ nhảy dựng lên.
- Chúa ơi, con... - ông bác sĩ ngỡ ngàng thốt lên - Nhìn con, người ta tưởng con hiền như một con chiên con, nhưng ai ngờ con lại thích chuyện bạo lực? Tại sao con không đọc những thể loại truyện khác?
Daniel đỏ mặt... chỉ một lúc nữa thôi là mình hết nhiệm vụ, ông bác sĩ nghĩ vậy và kiên nhẫn.
- Đọc xong là con quên ngay ấy mà. Sau một tuần nếu bác sĩ bảo con thuật lại những gì con đã đọc, chắc là con chẳng biết đâu mà lần.
Cậu không nói được gì thêm. Và ông bác sĩ đã vô tình kiểm nghiệm được những lý thuyết ông theo bấy lâu nay. Ông hỏi ngay:
- Cậu không nhớ những chuyện đã đọc! Chết nỗi! Con đã bao giờ thử chưa?
- Thử thuật lại? - Daniel thật sự ngạc nhiên việc ống bác sĩ hăm hở đặt vấn đề này.
- Ta muốn nói con thử thật sự ấy, có bao giờ, nói cụ thể hóa, con đã xắn tay áo lên, cầm cuốc hay xẻng xới tung cái ký ức của mình lên, xem có những chi tiết nào của các chi tiết câu truyện mình đã đọc chôn vùi trong đó? Thật ngạc nhiên, nhiều tài liệu về tù nhân thường hay bị giam trong ngục tối, đã đào sâu khám phá tâm hồn họ...

Ông bắt đầu nói đến những nghiên cứu điển hình và cuồng nhiệt nói về các tù nhân này nhớ hết, từng lời từng chữ các câu truyện họ đã đọc hồi nhỏ. Những người già hơn, có thể kể lại rành rọt nơi họ sinh ra, nơi họ sống thời thơ ấu, họ đã quên khuấy lúc trưởng thành nhưng nay lại nhớ lại... Người mắc một chứng bệnh tâm thần thì khó nhớ lại ký ức tuổi thơ hơn. Bác sĩ Martin khó khăn lắm mới kiếm được đề tài ông thích, ông lại sợ cứ mải mê nói chuyện sẽ trễ tàu mất.
- Con không muốn nhớ lại. Nhưng thực ra, người ta không thể quên được. Không có cái gì con đã cảm nhận, đã nghe, đã thấy - dù có nhỏ nhặt đến đâu, dù ta không nhớ rõ ngày tháng - cũng lưu lại một chút trong ký ức. Tất cả những gì đã ghi nhận trong tâm khảm con, dù có mơ hồ đến đâu, cũng không bao giờ xóa sạch được.
Thật hơi tàn nhẫn khi ông bác sĩ phản đối ý kiến cậu bé ngay mặt và rót vào tai cậu như vậy. Tàu đã vào ga nhưng còn từ từ tìm cách đậu đúng chỗ qui định và thuận tiện.
- Daniel à, theo lý thuyết thì con có thể nhớ lại hồi con mới sinh ra. Nhưng cần hàng ngàn năm nằm trong ngục tối để suy gẫm, và sau hết...
Khi cậu Daniel đã bước lên bậc toa xe, bác sĩ Martin mới nhớ tới một chuyện mà ông suy nghĩ từ hai ngày qua.
- Daniel, con nghe đây: Mẹ con đã rất hạnh phúc. Cuộc đời của bà thật viên mãn, an bình và tràn đầy hạnh phúc với những người bà yêu mến. Hãy tin ta nói thật, Daniel.
Daniel rất vui mừng vì đã tìm được quyển sách này, nhan đề ‘Giết người . Để được chìm ngập trong cảm giác tột cùng, cậu đã chạy trốn thực tại và chỗ chạy trốn yên tĩnh nhất lúc này là trong những trang truyện. Cậu đã biết trước cái hương vị của tiểu thuyết hình sự, y hệt như những con nghiện biết hương vị vô song của một liều ma túy. Cậu chạy trốn thực tại, vâng, nhưng đúng ra chỉ là sự buông thả lạ thường, không cưỡng lại được và cũng hơi sờ sợ.

Sáu tháng trước đây chắc cậu sẽ không xấu hổ về lời nhận xét của ông bác sĩ. Chỉ mới đây thôi, cậu đã khám phá ra một khoái cảm đen tối, hết sức hưng phấn khi tưởng tượng ra trước mặt mình là một xác chết. Cậu không xác định được khoái cảm tột đỉnh này dâng lên trong cậu lần đầu tiên vào lúc nào.
Gợi lại ký ức à? Mẹ kiếp! Cậu giữ nguyên cuốn truyện một lúc, chưa mở ra vội. Cậu nghĩ tới sự tức giận của ông bác sĩ già nhẹ nhàng quá, cứ như không ấy. Có thật sự là ta có thể nhớ lại những gì đã chôn vùi trong ký ức không? Nếu ta kiên từ tập luyện...? Nếu ta dùng cuốc xẻng để đào xới...?
Phần lớn thời gian trên chuyến tàu dài 5 giờ, cậu đọc cuốn truyện. Điều này là đương nhiên rồi.
Nhớ lại những gì mình đã quên, ta sẽ thấy tận đáy tâm hồn sâu thẳm, lý do tại sao ta lại ghét một loại tiếng động nào đó, thích một loại mùi thơm nào đó, đúng không? Có thể như vậy không? Ôi cái thứ chết tiệt này! Cậu thốt lên một câu chửi thề, ánh mắt còn cháy bỏng, hai má và thái dương còn đỏ rần vì ý nghĩ trong đầu.
Đã đến một ga xép, tàu chỉ chạy thật chậm nhưng không đậu lại. Một phụ nữ cao tuổi bước lên toa, quay lưng về phía cậu. Hình dong bán diện của bà khỏe mạnh. mặc bộ đồ xám. nón và khăn mỏng tím nhạt.
- Bà Emma!
Lòng cậu se lại và cậu cười. Cái mũ tím của bà nghiêng về phía trước... Emma, bà nhũ mẫu cũ của cậu đã chết cách đây ba năm - không, hai năm mới đúng - vì ba năm trước đây hà có từ Albany đến thăm cậu, một năm trước khi bà ấy mất.
Đúng, năm đó bà đi xe của cháu bà đến, mang cho Daniel cái áo sợi bà đã móc cho cậu. Cậu quan sát bà rất kỹ trong lúc cậu thử mặc cái áo sợi vào, cậu nhớ nụ cười rạng rỡ của bà ấy.
- Trời ơi, cô không tin được là con chóng lớn thế này trong vòng hai năm. Con có nhớ lần cô ghé thăm con gần nhất không?
- Con còn nhớ chứ, thế cô cho là con chẳng nhớ gì à? Và cô còn bảo con là... là một cậu bé kỳ lạ từ khi còn nhỏ, và cô còn bảo là điều đó sẽ qua thôi!
- Xin Chúa ban phúc cho con Daniel, và cái đó đã qua chưa?

Đối với cậu điều đó đã qua chưa? Nhưng đúng ra là điều gì mới được chứ? Ba năm trước cậu đã biết điều đó vì cậu nhớ được những gì cô vú đã nói với cậu hai năm về trước nữa. Cô nói cái gì đó, đại loại như:
- Cô nói thẳng là con luôn luôn là một cậu bé kỳ cục, Daniel. Ngày đầu tiên cô gặp con, ngày đầu tiên... Ngày đầu tiên cô gặp con...
Cậu không thể tập trung được nữa, mặc dầu đã cố hết sức. Trong cái toa hạng sang, thế mà cậu không ý thức được mình đang ở trong một toa xe sang trọng. Daniel nhíu mày.
Đừng chịu thua. Cố nhớ lại lúc đó bằng con đường khác...
Ta thấy, lúc đó hai người đang ở trong phòng của cậu. Cậu đang chuẩn bị đi ngủ và Emma đang đến gần cậu (vào lần thăm cậu áp chót, Emma ngủ lại một đêm ở nhà cậu). Cô Emma đã nằm trong cái ghế xích đu xanh dương và phải nói liên tục không ngừng nghỉ. Cô phải nói nhiều đến độ mẹ phải nói:
anh sex
đọc truyện sex hay
phim sex hay
truyện ma kinh dị
- Daniel, cô Emma đã mệt rồi. Con đừng đặt nhiều câu...
Cái đó, điều đó là thế đấy. Giờ thì cậu nhớ lại rồi. Chữ mà cậu tìm mãi không ra là “câu hỏi”.
Không phải là “những điều con đã nói”. Lúc này cậu đã nhớ toàn bộ câu đó là:
- Ngày đầu tiên cô gặp con, con có biết con hỏi cô câu gì không? Nói ngắn gọn, một cậu bé ba tuổi mà con hỏi con ngựa vằn là gì? hoặc phi cơ là cái gì’? Nhưng điều đầu tiên chính con hỏi ta chính là... sự việc đầu tiên con hỏi cô chính là...
Không, câu nói chưa đầy đủ. Tại sao trí óc con ngưng vận dụng ngay chính chỗ đó? Trước hết con đã suy nghĩ đến đó. Cô Emma thăm cậu trong phòng ngủ của cậu và cái phòng ngủ thì hôm nay cậu cảm thấy rất gần gũi.
Mặt cậu thiếu niên cau có. Máu trào lên khiến mặt cậu đỏ rần như đang tức giận. Một lời chửi thề “mẹ kiếp” đang run run định trào khỏi môi. Cậu có một cuốn sách để đọc, biết có tên một con chó, cậu sẽ đọc ngay. Cuốn truyện nhan đề “giết người”.
Giết người.
Lần này cậu đã nhớ được cái sự việc cậu hỏi đó!
- Sự việc đầu tiên con hỏi ta... ta cố hướng dẫn con trong gian nhà để dụng cụ, và con vùng vẫy, thoát khỏi ta... và con hỏi ta “giết người là gì?”. Con không thấy một em bé lên ba mà hỏi một câu như vậy là kỳ quái, chính con...
Giết người? Một cậu bé ba tuổi? Kỳ quái?... Nhưng ta cứ để yên mấy thứ này đây đã.

Một gian hàng! Gian hàng nào mới được chứ! Daniel cố ngược lại quá khứ, mày nhíu lại cho đến khi cậu thấy như sắp chạm được vào nó. Cậu không tài nào nhớ được một gian hàng nào ở trong các cái nhà mà cậu biết.
Một gian hàng? Chắc là một căn lều có phên mắt cáo. Ánh sáng chiếu vào trong lều qua những ô vuông hay ô hình thoi. ít ra... Ờ, trong toa Pullman hạng sang mà lại lạnh thế này? Ít ra cái gian hàng cung có lưới mắt cáo chứ?
Con tàu chở cái xác của Daniel Kinsman đến White River Junetion buổi chiều mùa hè đó, nhưng tâm trí cậu đã du hành trong khoảng mênh mông quá khứ, để tìm một câu trả lời kỳ lạ .
Trong trại hè, mấy hôm đầu, người ta để cậu sống thoải mái, không gò bó, làm phiền. Cậu lại cảm thấy bất hạnh, không ai chăm sóc đến cậu. Daniel mặt lầm lì, ăn mất ngon, chẳng để ý đến ai, mà cũng chẳng để ý gì đến bản thân mình.
Cách sống này có vẻ như bình thường được vài ngày. Nhưng đến cuối tuần, một thiếu niên ở tuổi dậy thì như cậu không thể sống uể oải ườn ra như thế. Cậu bắt đầu sống lành mạnh hơn. Nếu không Daniel sẽ tiếp tục, chẳng những sống xa cách mọi người, mà thân thể cậu còn chậm lụt, nặng nề. Cụ thể là cậu không sống với hiện tại, chẳng để ý đến những gì đang diễn ra xung quanh mình.
Sau cùng, giám đốc trại hè quyết định gửi thư cho cha cậu. Nhưng vì bác sĩ Martin thúc giục quá, ông đã khóa cửa nhà, cùng nhau đi săn trong rừng. Nhưng cái thơ gặp số phận chẳng bao giờ được gửi đi. Vì trước khi dán tem, người ta đã phát hiện là cậu thiếu niên Kinsman đã biến mất khỏi trại từ tối hôm trước. Người ta đã mất cả một buổi sáng để lục lọi tìm kiếm trong rừng, trên đồi, không thấy mới đành gửi thơ báo mất tích sang Gia Nã Đại.

Nhà đã đóng mọi cửa nẻo, khóa chắc, nhưng Daniel cũng biết cách vào nhà. Một cánh cửa sổ âm trong tường hé mở, cậu đã dùng một cái móc, và nâng được cái then cài lên. Trong các hành động cậu tính toán để làm, thì hành động này bạo nhất. Vào trong một căn nhà trống, tối như hũ nút, một người có thần kinh bình thường cũng phải nhợn. Thế mà Daniel vừa mất mẹ, và đầu óc cậu đã chìm ngập trong những ý nghĩ u ám, tưởng tượng không bờ bến nên càng tệ hơn nữa.
Trong vòng hai tuần, cậu tự bảo mình nếu cậu ở một mình trong nhà, cậu sẽ khám phá ra hết. Trí óc cậu sẽ không đóng kín bất thình lình như thế này. Cậu tự nhủ, nếu vào trong kia, có lẽ cậu có thể...
Và bây giờ cậu đang vào trong đó. Bây giờ cậu đang đặt chân lên các bậc thang mà cậu không nhìn thấy, tay cậu sờ soạng trên tường lần mò lối đi, cậu sẽ làm gì đây?
Cậu chẳng làm gì cả. Khi lần mò được đến phòng mình, sau những giây phút dài đứng lặng sợ hãi toát mồ hôi, cậu tìm thấy giường của mình. Cậu nằm vắt mình qua nệm giường và cứ nằm như thế trong nhiều giờ, bất động như người bị chứng tê liệt giữ nguyên thế.
Chính xác thời gian cậu nằm như vậy là bao lâu? Theo lịch là 4 ngày, nhưng cậu thì không tài nào ý thức được khoảng thời gian trôi qua này: điều này chứng tỏ 40 năm trong tù cũng qua mau như một giấc mơ 40 giây.
Cậu không ý thức được trạng thái vật lý này. Cũng may đây là mùa hè, nước không cúp. Lâu lâu cậu lại uống nước. Cậu tìm ra một hộp lúa mạch khô. Cậu uống nước và nhai hạt mì sống, nên cậu bị đau bụng. Điện bị cúp nhưng nhà có cái đèn dầu cậu có thể dùng nếu cậu muốn, hay nói cách khác cậu dám dùng. Giản dị nhất là do cậu cảm thấy là cậu cần ánh sáng đèn. Nhưng trên hết, mắt cậu đã chán nhìn những cái gì đang vây quanh cậu; cậu chỉ còn chú ý đến cái cửa hé mở của một gian hàng.
Thực ra, trong 15 ngày vừa qua ở trại hè, cậu đã sống ngược lại trong dòng thời gian quá khứ khá xa. Thậm chí cậu đã biết cách bắt ký ức mình đi ngược về quá khứ, đã biết cách dùng xẻng cuốc để đào xới ký ức như lời khuyên của bác sĩ Martin.

Bởi vậy, đối với cậu lúc này, tâm trí cậu như là của một cậu bé đang chơi trò ráp những mảnh kỹ ức rời rạc: một vết trầy trong cuộc trốn học đi chơi, nỗi đau đớn trong một lần bị phạt bằng roi, sự sung sướng dịu ngọt khi được khen thưởng. Nhờ những mảnh ký ức vỡ vụn đó, cậu xây dựng được riêng rẽ từng thời kỳ, thời kỳ cậu 6 tuổi, thời kỳ 5 tuổi, thậm chí thời lên bốn... Cậu sống lại với những ngày ấy, nhìn thấy cả những người, những con vật trong những cảnh cậu nhớ lại, không cần biết là cảnh nào, gặp hồi nào, nhưng dần dần, cậu đã tái hiện được đầy đủ chi tiết. Có cả mẹ Prichard, một người đàn bà dũng cảm bán bánh nướng. Hay Marie Belle... Vâng, làm sao quên được cô bé có cái cầu răng giả ấy.
Cậu nhận ra lại hàng đống sự vật, nhận ra mỗi nẻo ký ức tâm tư đều đáng hồi tưởng. Bởi vậy, vào xế chiều ngày cuối cùng ở trại, cậu đã cố nhớ tên một cậu bé tóc đỏ quạch, mặt đầy đốm tàn nhang hung đỏ. Đã nhiều lần, cái tên đó thoảng hiện về nhưng cậu không gọi lên được. Cậu tự bảo, không gọi lên được tên cậu ấy ta sẽ cố nhớ cả ngày.
Cả ngày... cả ngày. Nó đây rồi. Cậu đã nhớ ra! Tên cậu bé là Georgie Journée. Tên Georgie Jouneéc ai mà quên được!
Georgie Journée. Nào, nào Georgie Joumée. Thế là sau những giờ tĩnh lặng như chết, trở nên sinh động, đầy ắp sự việc. Một cái nhà bao quanh cậu bé mặt tàn nhang hung đỏ, xung quanh nhà đầy những vỏ đồ hộp, và trong sân, một nhà kho xuống cấp sắp xụp. Trong nhà kho có nhiều con thỏ.
Thỏ? Thỏ làm gì trong đó? Coi chút đã. Một con thỏ đang chạy, nhảy những bước rụt rè sợ hãi. Trong sân cỏ xum xuê đầy ánh nắng. Không, không phải là một con thỏ của George. Con này, và những con khác đã biến mất khỏi khung cảnh này. Con thỏ đó là một con thỏ hoang, đuôi dỏng lên trời. Nó bị vây bắt thình lình trong một lùm bụi ở vườn sau nhà. Nó bị chặn không còn đường về kho. Nó tìm cách chạy thoát thân xuyên qua sân cỏ, và Daniel đang đuổi theo nó.
- Chạy, Jeannot! Lapin! Chạy, nào bạn! Nhảyt Nào thỏ! Hấp, nhảy lên Daniel!
Đây này Daisy! Daisy đâu rồi? Con chó đâu rồi? Daisy! Daisy là con chó mẹ của spot, dĩ nhiên hơi già và uể oải, nhưng luôn luôn là con chó săn tốt.
Ánh nắng mặt trời, cỏ xanh rì, những vệt nắng, bóng râm loang lổ, hoang dã. Cần một cái hang, một cái lỗ. Và sau cùng cũng có một cái lỗ! Một cái khe hổng vuông giữa đống lá. Chui vào đi thỏ! Cậu bé, dừng lại! Chui vào đi thỏ, nằm im, đừng nhúc nhích! Cậu bé, đừng tiến bước nữa, con! Cứ nhíu mày nếu con thấy vui, cứ dặm cẳng cho bằng thích, hoặc cứ lầm bầm chửi thề. Nhưng con biết là con không muốn tiến đến cái lỗ mà con biết rõ mà.
Tại sao không?
Đúng là cảnh hỗn loạn như địa ngục: con thỏ lao ra, làm giật mình con chó già uể oải Daisy thức dậy, vùng đuổi theo. Con thì cố chạy thoát thân, con thì cố đuổi bắt diễn ra trước mắt Daniel đang đứng chôn chân tại chỗ.

Cậu không rời mắt khỏi cái khe nứt vuông dưới gốc những cây kim ngân leo lên một cái giàn giống như một khung cổng vì cậu lẩm bẩm câu ‘tôi phải kiếm cả ngày’ cậu mới gợi nhớ được con đường đến gian nhà. Đã mất hai tuần lễ cậu mới nhớ được cái giàn cây leo. Cậu như đã nhớ lại được cả trăm năm, một trăm năm thật sự chứ không phải 100 giờ. Ai biết cậu đã ngược dòng ký ức, trở lại với quá khứ đến thời điểm nào.
Ở giờ phút hiện tại, cậu đã giải quyết được nhiều điểm. Nhớ lại cái ngày gặp con thỏ cậu liên tưởng nhớ ra ngày gặp Emma. Lúc này cậu nhớ lại dễ dàng khoảng thời gian đó, bắt đầu từ bữa điểm tâm, ngay khi cô vú mới hiện diện trong vũ trụ riêng của cậu. Cậu tiếp tục leo lên phòng ngủ của cậu cùng với cô vú em. Cậu thay quần áo rồi lại cùng cô đi xuống, cậu luôn bám vào tay cô, rồi cùng đi thơ thẩn trong vườn. Cậu choáng ngợp trước bất cứ cảnh nào cô Emma chỉ cho cậu.
Rồi, thình lình cậu nghe giọng của cô Emma trên ngưỡng cửa gian nhà phụ chứa nông cụ.
- Xem nào, Daniel, em có cái gì đây. Một con cóc. Coi, em không phải sợ con cóc.
Cậu cảm thấy những lời nói như tận đáy lòng cậu vọng lên:
- Đây có phải là giết người không, cô Emma?
Trong bản thân cậu, cậu cảm nghiệm cái cảm giác lạnh toát nóng bỏng, xấu hổ và sợ hãi. Giống như môi khi cậu nghe từ - “chu kỳ” hay “nhu bì”.
“Nhu bì” là cái gì? Đó là tên một cây lê giống trồng sau nhà kho. Cậu không thích cái góc xa trong vườn đó mỗi khi nhớ tới. Ngay cả khi các bạn trẻ khác chơi ú tim với cậu trong vườn, cậu cũng chẳng bao giờ đến tìm những đứa nấp sau cái cây đó.
Tại sao vậy? Cậu cố hướng ký ức của cậu lần theo mấu chốt này. Nhưng vô vọng. Cậu không lần ra được sự việc nào nữa. Cậu đành tự bảo mình là mấu chốt này không quan trọng. Tốt hơn là bám lấy cái ngày cậu sợ cái xẻng.
Cái ngày của cái xẻng, cậu nhớ lại sau cái ngày của con thỏ và ngày của Emma. Cậu không nhớ đích xác được là ngày mấy, tháng mấy của mấy ngày này. Nhưng cậu nghĩ nếu bỏ nhiều thời gian ra nghĩ lại, thì “ngày của cái xẻng” phải xuất hiện trước hai ngày kia. Dẫu sao, chính vào ngày đó cậu thấy sợ bố cậu lần đầu tiên. Cậu cần phải suy nghĩ về điểm này. Cậu bướng bỉnh dễ sợ, cậu ngồi dưới một vòm ánh sáng hoàng hôn do những cây sào cạnh giàn hoa tạo nên. Những dây hoa kim ngân vẹt ra, và bố cậu xuất hiện, tay cầm cái xẻng.
Vậy thì ông đã làm gì? Trong hành động của ông có gì khả nghi. Có lẽ ông đã làm vườn lúc chiều mát, chắc chắn ông còn dựa cái xẻng trong gian nhà nhỏ để dụng cụ. Sau đó thì sao? Cậu muốn nghĩ xa hơn. Nhưng dù cố gắng mấy đi nữa cậu cũng chẳng nhớ thêm được gì. Từ đó, mỗi lần cậu thấy một người cầm xẻng là cậu bé quay lại, miệng chảy dãi, tưởng như có 10 yêu quái đang đuổi theo sau, ù té chạy về nhà nhờ mẹ che chở.
Tại sao? Tại sao chứ?
Sau suốt 4 ngày nhịn đói và mơ mộng, ánh bình minh chiếu xiên qua những khe cửa lá sách và các cửa trập bên trên tràn ngập phòng, cũng không đánh thức được cậu ra khỏi giấc cô miên cậu đã chìm vào từ nửa đêm. Sau cùng thì cậu cũng tỉnh dậy và cũng giống như thường lệ, cậu không thể nhớ ngay được những gì đã xảy ra cho mình trong mấy ngày qua. Cậu đang nằm ngửa, mắt nhìn lên trần, vẫn đúng là cái trần cậu nhận ra sáng nay. Cậu cố ngồi dậy trên nệm và định sẽ xuống dưới nhà. Nhưng khi vừa ngồi dậy lên được, cậu chóng mặt ù tai.

Cậu lại nằm xuống, răng đánh lập cập. Đó là triệu chứng dĩ nhiên khi nhịn đói vài ngày, nhưng đối với một thiếu niên, tình trạng này rất tệ hại vì sẽ bi rối loạn phát triển.
Lần đầu tiên, Daniel có ý niệm là cậu đã thất bại, đã bị sa lầy. Chắc đã đến lúc cậu không thể ấn náu ở đây được nữa, cậu không còn có thể ở một mình. Ngay khi ý tưởng này xâm chiếm đầu óc cậu, cậu đã cố dập tắt nó. Cái hốt hoảng cuống cuồng khiến cậu có nghi lực. Cậu nhất đinh bắt tay vào việc. Nhất định tìm ra bí ấn của bố mình hoặc là chết.
Nhưng những cuốc, xẻng cậu đã dùng để đào xới ký ức giờ đây đã thành các dụng cụ phá hoại kỳ cục. Khi cậu cố nhớ lại một người bạn thân quen vẫn chơi các trò chơi với nhau, hình ảnh người bạn bắt đầu méo mó. Lúc phóng đại lên, lúc thu nhỏ, như những khuôn mặt kỳ quái trong mơ. Hoặc khi cậu muốn đi sâu vào một hướng tâm tư chưa đào xới cậu lại sa vào những cảnh thật xa lạ, chẳng có liên quan gì đến quá khứ của cậu. Cậu rùng mình khi nhận ra đây là những cảnh cậu đã đọc trong một tiểu thuyết, không phải là cảnh cậu đã sống thực. Cậu cảm thấy thất vọng quá và lại chìm vào giấc ngủ.


Khi tỉnh dậy, trời đang đêm, cậu ra khỏi giường và sang phòng mẹ cậu, nằm trên giường của bà. Cậu làm việc này hầu như, hay có thể nói hoàn toàn như trong cơ mộng du. Cậu không hiểu tại sao cậu lại đổi phòng ngủ. Cậu ngủ, cậu thức, cậu thấy mình ở trong nhà chứa dụng cụ vào một lúc nào đó. Cậu không thể nhận định rõ được. Chỉ có thể nói, sau cùng, các thành tố của một cơn ác mộng đã liên kết với nhau mạch lục, hợp nhất.


Trước hết, phải có một ý đồ đen tối, đen tối gớm ghiếc tự nảy sinh. Một hậu quả luôn phải có một nguyên nhân, cũng như bóng của một vật, do ánh sáng chiếu vào vật đó ở một phía. Sau đó, cậu cảm thấy đồng thời một cảm giác chuyển động mông mênh không giới hạn, và cảm giác bất động, như thể chân tay cậu đã bị trói chặt.
Cậu chẳng nhận định được cái gì rõ rệt cả, có những lúc sự vật hiện ra rất rõ, nhưng cậu không đủ thời giờ để nhìn tổng hợp, bao quát.
- Chúng đi xa khỏi cái gian nhà dụng cụ rồi, thưa bà, hoặc chúng đã khiêng cả cái gian nhà nhỏ đi rồi...
Tiếng trạng ngữ xa rồi trở đi trở lại trong óc cậu, và từ này chập chờn, lúc thì ở trước, lúc thì ở sau những bóng đen lay động trong màn đêm, cùng với những tiếng động hỗn loạn: hơi thở dồn dập hổn hển, những tiếng lết chân lẹp xẹp.

Không một cảnh nào hiện ra với cậu đầy đủ cả. Vào mỗi giây phút khác nhau, một phần của cảnh này hiện lên nhảy múa, pha trộn với những phần của cảnh khác rời rạc hay những phần cảnh ở thời đoạn khác. Thí dụ như một loạt tiếng động: lúc thì là những bước chân chạy rầm rập bên ngoài, lúc thì tiếng cửa kọt kẹt, một tiếng chửi thề, một cú đập, một tiếng xô đẩy. Rồi những tiếng động đó xảy ra ngược lại, nghĩa là bắt đầu bằng tiếng động xô đẩy, tiếng một cú đập, tiếng chửi thề, tiếng cửa kọt kẹt, tiếng bước chân rầm rập. Và những tiếng động khả nghi này từ dưới vang lên. Có vẻ chúng vang lên từ một cửa sổ trong bóng tối. Có thể là “Dan, mày đang làm gì đó?” Và ngay sau đó là “Tom, mày đang làm gì đó?”
Có giai đoạn, từ giết người lại xen vào: “Đó là một vụ giết người. Dan ạ; tôi đã thấy vụ giết người đó tàn nhẫn, không gớm tay” ... Vào lúc này, cảnh trí hiện lên rõ ràng đặc biệt. Cái áo thúc đẩy cơn ác mộng xảy ra biến thành đôi cánh tay của người nói câu trên. Và người nói chính là mẹ cậu.
- Đừng vào cửa này, mẹ sợ con, Dan ạ. Tay con dính đầy máu, máu sát nhân. Tại sao con giết người? Con đừng nói gì cả? Có phải tại mẹ nuông chiều con quá không? Mẹ yêu đứa con thân yêu mẹ đang ôm trong lòng; tại sao mẹ lại sợ nó như thế này? Tại sao mẹ lại sợ bố con như thế này cơ chứ, còn sợ chừng nào bố con con còn sống?

Và tiếng kêu này, vừa vang vang vừa quá kích động có kèm theo một hình ảnh: hình ảnh bố cậu mặt mày căng thẳng, trắng bệch, một tay xách cái đèn bão, một tay xách cái xẻng, lốm đốm những đốm đỏ sẫm và dính đất.
Nhưng khi chuyện này xảy ra trong đầu cậu, ánh sáng cây đèn bão bố cậu cầm lùi xa dần như nó ở tận một nơi xa xăm. Nhưng trong giấc mơ, nếu gọi đây là giấc mơu sự phân cách giữa hai ánh đèn này khiến người mơ trằn trọc, đau đáu. Có phải cậu thiếu niên dậy thì này say mê chăm chú vào cái ánh đèn yếu ớt đó không? Cậu cho rằng những ánh sáng xa xăm ấy sẽ cho cậu lời giải đáp cái thắc mắc đã nung nấu cậu bấy lâu nay. Bởi vậy cậu hăm hở đợi cảnh đó diễn ra một lần nữa trong bóng tối. Khi cảnh đó bắt đầu lại, cậu còn nghe tiếng một phụ nữ khác trong phòng ngủ. Cậu tự hỏi, có phải tiếng bà nhũ mẫu không? Bà ấy nói:
- Chúng nó đang đào đất ở dưới kia, thưa bà...
Và cái ánh sáng xa xa biến mất, và lại biến thành cái gian nhà phụ để dụng cụ sau vườn. Daniel vẫy vùng với tất cả sức lực trong cơn quẫn trí để vùng thoát ra khỏi vòng tay mẹ.
- Đừng vào đây, mẹ sợ con quá…
Cái đèn bão lại xuất hiện cùng với cái bàn tay cầm đèn đỏ lòm, và bộ mặt trắng nhợt. Cậu la lên:
- Vâng, nhưng nói cho rõ hơn. Chúng đang đào ở đâu, ở đâu?
Cơn ác mộng đang làm cậu đổ mồ hôi hột khắp mình.
Sau cùng, cậu đã mệt nhoài và nghe thấy tiếp:
- Thưa bà, họ đào ở dưới kia, dưới...
- Dưới cái gì?
- Dưới, dưới cây lê...
- Cây lê?
- … đang ra quả rất sai, dưới cái nhà kho và dưới ánh đèn bão, thưa bà…
- Đèn bão! Nói ngay đi, cái đèn bão ở đâu? Mau lên!
-… họ đào ở trong...
- Họ đào sao? Bằng cuốc và xẻng à? Họ ở đâu?
- …đất, họ đang chôn một cái gì đó.
- Một cái gì đó bị chôn.
- Thưa bà, ở dưới cây lê.
Có bao giờ cậu đã thực sự thử chưa? Đã lần nào cậu thực sự xắn tay áo lên, cầm cuốc xẻng... để khám phá xem họ chôn cái gì chưa?

Khi ông Dan Kinsman và bác sĩ Martin về đến nhà rất khuya, họ chỉ hy vọng lần mò trong đêm tối đi được đúng đường. Đôi mắt họ đỏ ngầu vì những đêm thức đi săn. Râu ria lởm chởm biếng cạo, quần áo nhàu nát. Cuối cùng hai người cũng về đến cửa. Mở khóa, rút cây chắn, cánh cửa cót két mở ra. Hai người bước vào.
- Vào đây rồi chúng ta làm gì?
Chính ông bác sĩ nhìn thấy qua cửa sổ phòng khách.
- Này! Đang xảy ra chuyện gì ở dưới kia thế nhỉ? Có một người cầm đèn bão, lấp ló sau nhà kho!
Hai người bước ra khỏi cửa, sau đó họ chạy. Họ thấy một cái đèn bão, một cái xẻng và một lưỡi xới đất dưới gốc cây lê ‘nhu bì’ . Một thiếu niên mặt đầy tàn nhang, mắt mở to, đang đứng dưới một cái hố cậu mới đào được sâu trên đầu gối, hai tay cầm hai cục xương nâu.
- Trời ơi, con làm gì ở đây? - Bố cậu hỏi.
- Những vật gì đây? - Daniel hỏi bố.
- Trời ơi! - Ông bác sĩ kêu lên.
Họ chỉ nói được có vậy.
Nhưng không phải ông Dan cố gây chuyện mà vì ông choáng váng bàng hoàng:
- Con làm gì thế này, nói cho bố nghe.
Không phải Daniel đang tức giận mà vì chân cậu lâu lâu lại muốn sụm xuống.
- Thế này là sao? Bố nói con nghe đi!
- Ôi, con trai của bố... con bệnh rồi.
- Vâng, con bệnh. Tom là ai hở bố?

- Chúa ơi! Dan, ông nghe tôi. Daniel, cậu cứ bình tĩnh, để tôi nói chuyện xong với bố cậu đã. Ông Dan, chuyện này xảy ra lúc nào? Vào cái đêm đáng nhớ đó, cậu bé này mấy tuổi?
- Ông muốn nói tới cái đêm nào, bác sĩ…
- Nào, ông bạn già, cố nhớ lại đi. Cái đêm mà anh thấy Tom cứ quanh quẩn ở chỗ đó cả tuần lễ trước đó, cái đêm mà ông gọi tôi. Cái đêm mà tôi mang thuốc mê Cloroforme sang vì tưởng rằng con chó có thể…
- Một con chó! - Cậu thiếu niên cứ nhắc đi nhắc lại. Một con chó…
- Và ông đã kịp thời đập cho nó một cái xẻng vào đầu. Cám ơn trời! Tôi chỉ muốn hỏi lúc đó Daniel lên mấy thôi.
- Chưa đủ tuổi để có thể nhớ lại... Daniel, ai đã kể cho con...
Ông bác sĩ xen vào:
- Không, ông bạn già, ông cho tôi biết lúc ấy Daniel lên mấy?
- Có lẽ chỉ mới hai tuổi. Không thể lên ba được. Lúc đó cháu mới là một ấu nhi, còn phải bế trên tay. Bà Vivian nhà tôi luôn phải bồng cháu trên tay tối hôm đó.
- Lúc đó bà ấy bồng cậu bé ở đâu?
- Trong kia, trong gian nhà nhỏ để dụng cụ.
Bà Vivian... trong gian nhà...
- Một lúc sau đó, bà ấy đã bồng Daniel vàn đó.
- Sao chẳng bao giờ ông nói cho tôi biết chuyện.
- Không, tôi... còn chuyện khác... Nghe bố đây, Daniel, con sẽ hết bệnh thôi.
- Không, ông Dan, đã có chuyện gì xảy ra giữa bà Vivian và Daniel trong gian phòng để đồ sau cú đó? Ông phải nói cho tôi rõ.

- Hôm đó bà ấy ốm. Bà ấy sợ, vậy thôi... Như ông đã biết đó. Bà ấy cứ sợ bóng sợ gió các sự việc và các con vật bà ấy gặp và bà ấy chẳng biết gì. Bà ấy chẳng hiểu vì có biết gì đâu mà hiểu. Bà ấy bị thác loạn thần kinh mà. Bà ấy vào nhà để dụng cụ xem... nhưng bà ấy cứ ở miết trong đó…
- Nhưng ông giải thích rõ cho họ bao giờ?
- Chính chỗ đó tôi cứ bị dằn vặt mãi. Tôi đúng là một thằng ngu. Ban đầu tôi định giấu. Con chó ngao đó của bà ấy. Bà ấy nuôi nó từ nhỏ và từ lúc nó mới sinh. Bà ấy cưng nó lắm. Cái đó mới rắc rối. Tôi lại không nỡ nói con chó bị điên. Tôi thật là ngố và lâm cẩm!
- Đúng, ông thật lẩm cẩm.
- Bà ấy đã nói là bà ấy sợ tôi. Bà ấy đã nói... đã nói…
- Mẹ đã nói là có một vụ giết người, bố. Và con chỉ... chỉ…
- Chúa ơi, con tôi! Cái gì đã xảy ra vậy hả trời... Ê đỡ lấy nó, ông bạn già, nó té bây giờ.
- Ông đỡ lấy nó, con ông mà. Đồ ngố! Nó còm cõi quá, thiếu dinh dưỡng mà ông đâu có lo.
- Nó tỉnh rồi, tôi ôm nó lên, tôi e rằng...
- Đừng sợ. Đừng sợ gì nữa.
anh sex
đọc truyện sex hay
phim sex hay
truyện ma kinh dị

Con Ma Thiếu Kinh Nghiệm_đọc truyện sex hay việt

Con Ma Thiếu Kinh Nghiệm

(The Inexperienced Ghost)

Tác giả: H. G. Wells

Những cảnh tượng mà Clayton tả trong câu chuyện vừa qua của anh gợi lại rõ mồn một trong tâm trí tôi. Phần lớn thời gian, anh ngồi trong cái góc được kiến trúc cố định đó bên cạnh cái vòng xây để sưởi bằng củi tự nhiên. Sanderson ngậm cái tẩu
anh sex
đọc truyện sex hay
phim sex hay
truyện ma kinh dịBroseley có khắc tên, sát cánh anh. Còn có Evans, và Wish, một diễn viên nổi tiếng nhưng dung dị nữa. Sáng thứ Bảy đó, tất cả chúng tôi đều đến Câu lạc bộ Mermaid, trừ Clayton là người đêm trước đã ngủ ở đây nên mới gặp chuyện. Chúng tôi chơi golf cho tới tối mịt, không thấy banh, thấy lỗ nữa mới nghỉ. Chúng tôi đang có tâm trạng bao dung thông cảm với người gặp chuyện chẳng lành. Lúc Clayton bắt đầu kể chuyện đó, chúng tôi đều cho là anh la bịa. Cũng có thể là anh bịa ra thật. Đọc xong, độc giả cũng sẽ dễ dàng phán đoán như tôi thôi. Anh kể như một giai thoại đã có thực, nhưng chúng tôi lại cho rằng đó là do tật bịa chuyện không còn cách chữa của anh.
Mới đầu, sau khi quan sát những tia than hồng bốc lên từ khúc củi Sanderson vừa gõ lên:
- Này, các anh biết chỉ có mình tôi ngủ ở đây tối qua?
Wish thêm:
- Còn những người nhà này nữa chứ.
- Nhưng họ ngủ cả ở cánh nhà bên kia. Thôi được…
Clayton nói rồi rít xì gà một lúc, như thể chưa đủ tự tin. Rồi anh nói rất nhỏ:
- Tôi đã gặp một con ma!
Sanderson thảng thốt:
- Anh gặp ma? Thật không? Ở đâu?
Evans, người rất ngưỡng mộ Clsyton và đã sang Mỹ được bốn tuần rồi, cũng la toáng lên:
- Anh đã gặp ma à, Clayton? Tôi khoái chuyện đó lắm. Kể ngay đi.
Clayton nói anh sẽ kể ngay thôi và nhờ Evans đóng cửa lại. Anh nhìn tôi như mong tha thứ:
- Để không ai vô tình nghe được, những tin đồn vê ngôi nhà này có ma sẽ gây xáo trộn dịch vụ hữu ích của chúng ta đang phát đạt. Nhiều chỗ tối và các ván ghép gỗ sồi ở đây liên quan đến việc ma xuất hiện. Anh biết không, đây không phải là con ma xuất hiện thường xuyên. Tôi cho rằng nó không xuất hiện nữa đâu, không hao giờ xuất hiện nữa.
Sanderson hỏi:
- Anh không hẹn gặp nó nữa à?
- Tôi chẳng còn lòng dạ nào mà hẹn gặp nữa.
Sanderson nói là anh rất kinh ngạc. Chúng tôi cười rộ lên. Clayton coi rất khổ não. Anh nhếch mép cười rồi nói:

- Nhưng nó là ma thật mà, tôi chắc chắn như sự hiện hữu của tôi và đang nói chuyện với các anh đây, không hề đùa giỡn. Tôi nói gì là đúng tôi muốn nói vậy.
Sanderson kéo mạnh một hơi thuốc, nhìn Clayton bằng một con mắt đỏ ngầu, rồi phà ra một luồng khói thuốc còn hùng hồn hơn lời nói. Clayton lơ cái cách bình phẩm nghiệt ngã ấy, tiếp:
- Đó là chuyện lạ lùng nhất trong đời tôi. Các anh biết, tôi không hề tin vào ma quỉ hay loại lương tự, trước đây và cả sau này nữa. Thế mà tôi lại gặp con ma ở một góc nhà và tôi hoàn toàn làm chủ tình thế.
Anh trầm lắng suy nghĩ thêm, lấy một điếu xì gà mới ra, dùng một cái kim có hình thù kỳ dị, xoáy một lỗ dọc theo đầu điếu thuốc anh vẫn thích.
Wish hỏi:
- Anh có nói chuyện với nó chứ?
- Chúng tôi nói chuyện khoảng một giờ đồng hồ.
Tôi nhập bọn với đám bạn hồ nghi:
- Anh chủ động nói chuyện với ma?
- Con ma đáng thương đó đang gặp khó khăn. - Anh vừa nói vừa cúi xuống nhìn mẩu xì gà, không hề tỏ ý bực mình.
Một người hỏi:
- Nó có khóc nức nở không?
Clayton nhớ lại và thở phào nhẹ nhõm:
- Trời ơi, có, con ma có khóc. Thật tội nghiệp!
Evans hỏi bằng một giọng Mỹ thật chuẩn xác:
- Anh đập nó vào đâu?
Clayton phớt lờ Evans đi:
- Thật không thể mường tượng được. Ma phải có hình thù, tác phong giống như ma. - Nói rồi anh lại bắt chúng tôi hồi hộp chờ đợi để tìm diêm trong túi, quẹt lên rồi châm thuốc. Sau cùng. anh lại nhớ lại, nói - Tôi hoàn toàn ở thế thượng phong.

Chúng tôi cũng chẳng ai có việc gì gấp, nên cố kiên nhẫn đợi anh rề rà.
- Một cá tính mạnh, dù không có thân xác, con ma vẫn giữ được cá tính của mình. Đó là điều mà chúng ta thường quên mất. Khi còn sống, một người có một năng lực mạnh, có một mục đích nhất định, khi chết sẽ thành ma có những điểm mạnh đó và cũng có một mục đích. Những con ma ám ảnh dai dẳng nhất thường là những con ma có một lý tưởng, bị ám ảnh bởi một đối tượng và cứng đầu như một con lừa, xuất hiện liên tục. Nhưng con ma đáng thương này không như vậy. - Rồi thình lình anh ngước mắt lên, ánh mắt rất kỳ dị, đảo mắt quanh phòng một vòng - Tôi nói với tất cả lòng nhân hậu, sự thực chỉ đơn giản có vậy. Ngay từ cái nhìn thấy nó đầu tiên, tôi đã thấy nó là con ma yếu hèn.
Anh ngắt câu chuyện như thể chấm câu bằng điếu thuốc.
- Các anh biết không, tôi gặp nó trên hành lang dài của dãy phòng bên cánh này. Hắn quay lưng lại tôi nên tôi trông thấy hắn trước. Tức khắc, tôi biết hắn là ma. Hắn trắng và trong suốt. Qua bộ ngực trong của hắn, tôi có thể thấy mờ mờ cái cửa sổ nhỏ ở cuối dãy phòng. Ngoài cái cơ thể vật chất của hắn ra, thái độ của hắn cũng khiến tôi nghĩ ngay là hắn yếu. Hắn nhìn như thể hắn chẳng biết phải làm gì. Một tay hắn chạm vào tấm gỗ trên mặt trước phòng, một tay đưa lên miệng, như thế này!
Sanderson hỏi cho rõ:
- Cơ thể vật lý của hắn như thế nào?
- Gầy nhom, các bạn nhớ, những thanh niên gầy nhom, thường có hai rãnh lõm xuống sau gáy, dài tới lưng, ở những chỗ này này, cái đầu nhỏ, tóc ngắn nhưng dầy và hai cái tai rất xấu. Vai so lại, hẹp hơn cả hông, cổ áo loại bẻ sát xuống, áo vest may sẵn, quần ống rộng, đã sờn hết gót. Tôi thấy hắn như vậy đấy. Tôi lặng lẽ lên lầu. Tôi không cầm nến theo, vì các bạn biết cây nến để trên bàn, đầu cầu thang và còn cái đèn kia nữa. Tôi đang mang đôi dép có đế nghiêng sang một bên. Tới đầu cầu thang tôi lại trông thấy hắn. Tôi đứng khựng lại, chú ý đến hắn. Tôi chẳng sợ hãi chút nào. Trong những trường hợp gặp ma tương tự, tôi nghĩ hầu như người ta không sợ và kinh động đến độ như người ta tưởng. Tôi ngạc nhiên và tò mò. Tôi nghĩ, Chúa ơi, cuối cùng đây là con ma thật! Thế mà trong suốt hai mươi lăm năm qua không hề có giây phút nào tôi tin có ma!
- Hừm! Wish thốt lên.

- Tôi cho rằng tôi vừa lên đến đỉnh cầu thang thì hắn đã thấy tôi ngay. Hắn quay phắt lại đối diện tôi. Thoáng nhìn mắt hắn, tôi thấy hắn là vị thành niên. Cái mũi xẹp, hàng ria ngắn, rậm, cái cằm thon. Chúng tôi đứng im như vậy quan sát nhau một lúc. Rồi như nhớ tới sứ mạng cao cả nào đó, hắn đứng thẳng người lên, nhìn xung quanh rồi đưa mặt về trước, nâng hai tay lên, bàn tay xòe ra - có lẽ đây là điệu bộ lịch sự của ma - tiến đến gần tôi hơn. Trong lúc làm như vậy, hàm hắn trễ xuống, thốt ra tiếng ủa kéo dài như từ xa vọng lại. Không, tiếng hắn thốt ra không khủng khiếp, chẳng dễ sợ chút nào. Tôi đã ăn tối, uống một chai champagne, vì cô đơn tôi uống thêm vài ly whisky, bốn, năm ly gì đó. Tôi cảm thấy vững như bàn thạch. Nếu có chút gì sợ hãi thì cũng không hơn bị một con nhái nhảy vào người. Tôi cũng nói: “Ủa! Vô lý quá, tôi đâu có thấy anh trọ ở dãy này. Anh định làm gì ở đây?” Tôi thấy hắn nhăn mặt.
“U… ả" hắn nói.
- “Ủa cái gì? Đốt anh đi! Anh có là một hội viên quản trị không?” Tôi nói, rồi tỏ ra cóc thèm để ý đến hắn, tôi bước thẳng vào một bên người hắn, để đi đốt nến.
- “Anh có là một hội viên quản trị không?" tôi nhắc lại câu hỏi và liếc xéo hắn. Hắn tránh sang một bên để tôi khỏi đụng vào hắn, và cư xử như chán nản lắm. Vì tôi vẫn trừng trừng nhìn hắn, đợi hắn trả lời.
- “Không, tôi không là hội viên, tôi là một con ma.”
- “Vậy thì anh đâu có quyền điều hành câu lạc bộ Mermaid. Anh muốn gặp ai ở đây hoặc chuyện gì đại loại như vậy?” Tôi hỏi rất cứng để hắn đừng hiểu lầm giữa thái độ bất cần do rượu và thái độ sợ sệt. Đốt nến xong tôi cầm trên tay, soi vào mặt hắn: "Anh làm gì ở đây?” Con ma yếu ớt của một thiếu niên, ngốc nghếch, vô mục đích đã bỏ tay xuống, hết nói ủa , đứng đó ngượng ngùng tuyệt vọng. "Tôi chỉ quanh quẩn ở đây."
Tôi bình thản nói: "Anh chẳng có việc gì mà quanh quẩn ở đây cả."
- Tôi là một con ma! Hắn nói như thể câu đó biện minh cho việc hắn ám ảnh ở đây, như để bào chữa.
- Có thể anh là ma nhưng anh đâu có việc gì mà cứ ám ảnh ở đây. Đây là một hội quán tư, có tiếng tăm. Người ta thường nghỉ ở đây với cả vú em và trẻ sơ sinh. Nếu anh cứ đi luông tuồng như vừa rồi, trẻ em hay phụ nữ có thể gặp anh và họ sẽ sợ chết khiếp chắc là anh chưa nghĩ tới điểm này?
- Thưa ông, không, tôi không nghĩ tới điểm đó.
- Anh phải nghĩ tới điều đó mới được. Anh không có quyền lợi gì trong hội quán này, phải không? Anh không bị giết chết ở đây, hoặc bị cái gì tương tự chứ?
- Không, tôi không bị như vậy, nhưng tôi nghĩ nhà cổ, được ghép lót bằng gỗ sồi…
Tôi nhìn hắn nghiêm khắc:
- “Đó không phải là lý do, anh đến ở đây là lầm”. Tôi nói với một giọng thân mật kẻ cả. Tôi giả vờ xem đã để diêm vào túi chưa rồi ngước lên nhìn hắn thành thật. "Nếu tôi là anh, tôi không đợi tới lúc gà gáy, mà biến đi ngay tức thì."

Trông hắn có vẻ thật bối rối: "Sự thật là... thưa ông."
Tôi nói huỵch toẹt: “Tôi sẽ biến ngay."
“Thưa ông, sự thực là về vài phương diện, tôi không thể."
“Anh không thể biến đi?
“Vâng, tôi không thể biến, vì tôi còn quên một điều gì đó. Tôi đã quanh quẩn ở đây từ nửa đêm hôm qua, nấp trong một cái tủ ở một phòng trống, và các nơi trống. Tôi rúng động. Tôi chưa đi ám ảnh một nơi nào bao giờ. Nơi trống nào tôi định vào đều có cái gì đẩy tôi ra."
"Như có cái gì đẩy anh ra?"
“Thưa ông vâng, tôi cố đẩy mấy lần nhưng nó không chịu ra. Cái gì đó làm tôi trượt và không trở lại chỗ cái tủ được nữa."
- Các anh biết không chuyện của con ma làm tôi rất ngạc nhiên. Hắn nhìn tôi một cách hết sức chán nản đến nỗi, cả cuộc đời tôi chủ trương dùng sức mạnh ăn hiếp người ta, mà cũng không chấp nhận được cái kiểu ăn hiếp quá đáng này. Tôi nói:
"Thế thì quái lạ thật".
Đồng thời tôi tưởng như có ai đang đi ở phía dưới, nên nói:
"Vào phòng tôi và nói cho tôi nghe thêm về chuyện đó."
- Tôi thật chẳng biết chuyện đó ra sao và tôi cố nắm tay hắn. Nhưng giống y như chúng ta cố gắng nắm một làn khói vậy. Chắc là tôi lúc đó quên mất tiêu số phòng của mình, tôi nhớ là tôi đã đi vào mấy phòng ngủ khác, nhưng may mắn là chỉ có một mình tôi ở bên cánh nhà này, mãi cho tới khi tôi thấy dấu hiệu của tôi.
“Ta đến phòng rồi."
- Tôi ngồi xuống ghế sa lông rồi mời:
"Ngồi xuống, rồi nói cho tôi rõ về chuyện đó. Có vẻ như anh bạn tự chuốc lấy chuyện rắc rối rồi”
“Cũng được.”

- Hắn nói hắn không ngồi, hắn thích bay lượn lên xuống trong phòng nếu tôi không phiền. Thế rồi chỉ một lúc sau chúng tôi đã say sưa nói một câu chuyện dài và nghiêm túc. Và khi rượu whisky trong tôi đã nhả, tôi mới thoáng thấy một chút câu chuyện long trời lở đất tôi đang dính vào. Và hắn luôn ở đó, trong mờ, đúng nhà ma thông thường, im lặng trừ cái giọng ma của hắn lúc ở bên phải lúc ở bên trái trong cái phòng cũ xinh xinh, sạch sẽ có treo những màn hoa. Các anh có thể thấy xuyên qua hắn, ánh lóng lánh của cái chân nến bằng đồng đỏ, ánh sáng trên bửng chắn lò sưởi bằng đồng thau, hay các góc cuả khung tranh chạm trổ. Và chính trong phòng đó hắn nói cho tôi nghe quãng đời hèn hạ đau khổ, ngắn ngủi hắn vừa trải qua, trên cõi đời này. Hắn không có một bộ mặt thật lương thiện, nhưng các bạn biết đấy, hắn trong suốt nên không thể không nói thật.
- Ê, vì sao chứ?" Wish cựa mình trong ghế, hỏi.
Clayton hỏi lại
- Cái gì?"
- “… vì trong suốt nên không thể không nói thật”. Tôi không hiểu?
Clayton nói:
- Tôi cũng không hiểu một cách chắc chắn, nhưng sự thật là thế, tôi đoan chắc với anh. Tôi tin là hắn luôn nói thật như Kinh Thánh. Hắn nói cho tôi nghe hắn bị giết chết như thế nào. Hắn đã cầm một cây đèn cầy xuống một căn hầm ở London để tìm chỗ dò khí đốt. Lúc này hắn đang là trưởng bộ môn Anh ngữ trong một trường tư ở London.
Tôi buột miệng thương cảm:
- Tội nghiệp!
- Tôi cũng cho là quá tội nghiệp. Càng nghe hắn nói tôi càng thương cho hắn. Ở đó hắn sống không lý tưởng và cũng chẳng nhắm mục đích nào ở kiếp sau. Hắn nói cho tôi về cha mẹ hắn, về các thầy giáo đồng nghiệp, về các người có chút liên hệ trong cuộc đời ti tiện của hắn. Hắn nói là hắn quá nhạy bén, quá ưu tư lo lắng. Không ai đánh giá anh đúng mức, không ai hiểu anh. Hắn không có người bạn chí thiết nào trong đời, không làm được việc gì đáng gọi là thành tích. Hắn trốn các giờ tập thể dục và thi rớt nhiều kỳ. Hắn nói cũng có nhiều người như hắn, hễ cứ vào phòng thi là hắn quên hết mọi điều đã học. Hắn đã từng đính hôn, nhưng cũng với một người dễ xúc động như hắn. Rồi thì bất cẩn trong vụ xì ga, cuộc hôn nhân đành chia cắt. Tôi hỏi:
"Thế bây giờ anh đang ở đâu? Không ở..."

- Hắn cũng chẳng trả lời được vấn đề này rõ ràng. Câu trả lời của hắn gây cho tôi một ấn tượng mơ hồ, một trạng thái trung gian, nơi đặc biệt dành cho các linh hồn không xác định được sự hiện hữu cụ thể bằng tội hay thánh đức. Tôi cũng chẳng biết sao nữa. Hắn không thể hiện được bản ngã, không quan sát được để tôi có thể mường tượng ra cái nơi, cái thế giới hắn đang sống ở bên kia cuộc đời hữu hình. Chẳng biết hắn ở thế giới nào, nhưng cùng ở chung với những hồn ma có thể đồng cảm được với nhau: những hồn ma trẻ, hèn yếu, có tên thánh ở vùng London. Tập thể này thường nói đến đi ám và những việc tương tự. Đám ma này coi ‘đi ám như một cuộc phiêu lưu lớn, và phần đông các hồn ma loại này luôn thất bại. Các bạn thấy, được biết sinh hoạt như vậy, nên hắn từng đến đây ám.
- Có thật như vậy đấy! - Wish nói vậy, càng thêm cho câu chuyện bốc lửa.
Clayton nói càng thành thật:
anh sex
đọc truyện sex hay
phim sex hay
truyện ma kinh dị
- Hắn gây cho tôi cái trạng thái không nắm vào đâu mà nhận định, không thể có một ý kiến riêng. Những điều vừa rồi chỉ là hắn nghĩ hắn đang ở hoàn cảnh như vậy. Hắn vẫn nhởn nhơ bay lên bay xuống, với một giọng thoang thoảng xa xăm, nói về kiếp sống đau khổ của mình, mà chẳng có từ nào xác định, chẳng một câu nào rõ nghĩa, từ đầu đến cuối. Hắn càng ngày càng mong manh như mây khói, nói mơ hồ chẳng đâu vào đâu, so với một con ma thực và sống thực hơn. Các bạn biết, có điều là nếu hắn phá phách như một con ma kinh quái, thì hắn đã không được vào phòng tôi. Tôi sẽ tống cổ hắn ra ngoài.
Evans đã hết ngạo nói:
- Đúng thế, cũng có những người lúc sống như vậy.
Tôi cũng hùa theo công nhận:
- Như vậy trong bọn ma cũng có những con giống hệt chúng mình đây.
- Các bạn thấy, điểm có lý đối với hắn là thực tế hắn đã nhận ra mình. Cái mớ bòng bong rối rít hắn tạo ra khi đi ám, đã làm hắn thất vọng não nề. Các con ma khác đã nảo với hắn đi ám chỉ là cuộc rong chơi hồi hộp. Hắn tin ngay đây chỉ là cuộc rong chơi mạo hiểm một chút. Thế là hắn lại thất bại thêm một lần nữa. Hắn tự cho mình là đã thất bại hoàn toàn.

Hắn nói, và tôi tin là thực, suốt lúc sinh thời, hắn chẳng làm việc gì được suôn sẻ, mà không gây rắc rối; và bây giờ, trong cõi u minh bất tận hắn cũng sẽ chẳng làm được gì. Nếu có những ma khác thông cảm giúp đỡ, may ra... Hắn ngừng ở đó và nhìn tôi chằm chằm. Tôi rất ngạc nhiên khi hắn nhận xét rằng chưa ai cho hắn một chút thương cảm như tôi đang làm với hắn. Tôi hiểu ngay hắn muốn gì và quyết định tống cổ hắn đi ngay. Các anh biết đấy, làm như vậy thật tàn nhẫn, nhưng là NGƯỜI BẠN THÂN THIẾT DUY NHẤT, người được tín nhiệm của một hồn ma yếu hèn, một người trần mắt thịt như tôi không thể chịu đựng được. Tôi đứng bật dậy:
"Anh không thấy anh đã suy nghĩ quá nhiều về việc này hay sao? Việc anh phải làm là thoát khỏi cảnh này ngay, thoát ngay”.
- Lấy lại bình tĩnh, thu mọi can đảm. “Thoát!" Hắn nói: "Tôi - không thể."
- Tôi nói mạnh: "Anh phải cố xem"
- Và hắn đã cố làm được.
Sanderson thẫn thờ thốt lên:
- Cố! Bằng cách nào?
- Múa tay.
- Múa tay là sao?
Một loạt những cử chỉ, điệu bộ phức tạp và khoa tay. Đó là cách thức hắn đến và hắn cũng phải đi ra bằng cách đó. Trời ơi, tôi gặp chuyện thật rắc rối!
Tôi hỏi:
- Nhưng làm sao một loạt điệu bộ múa tay mà...
Clayton quay sang tôi và nhấn mạnh vài chữ khi nói:
- Ôi, anh bạn, cái gì bạn cũng đòi hỏi rõ ràng. Tôi không biết hắn biến theo cơ chế nào. Tôi chỉ biết người ta làm vậy, hắn đã làm như vậy. Sau một khoảnh khắc dễ sợ, hắn đã múa đúng và đột nhiên biến đi.

Sanderson nói chậm rãi:
- Anh có quan sát kỹ những điệu múa không?
- Có. - Clayton nói rồi cố nhớ. - Rất kỳ lạ. Chúng tôi ở đó, tôi và con ma mong manh sương khói, ở trong căn phòng yên tĩnh đó, trong cái hội quán vắng khách, tĩnh lặng này, vào một đêm thứ Sáu ở cái tỉnh lẻ bình lặng này. Không một tiếng động trừ giọng nói của chúng tôi và tiếng phều phào khi hắn chao lượn. Chỉ có một cây đèn cầy cạnh cửa phòng và một cây trên bàn trang điểm, lâu lâu một trong hai cây lại phụt lên thành một ngọn lửa dài. Rồi chuyện kỳ diệu xảy ra. Hắn nói “tôi không thể, tôi không bao giờ...” Thình lình hắn ngồi thụp xuống cái ghế đẩu ở cuối giường, bắt đầu khóc nức nở. Trời ơi! hắn nhõng nhẽo khó chịu quá!
“Anh phải bình tĩnh, thu hết mọi can đảm," tôi nói rồi vỗ lưng hắn để khuyến khích, và cái bàn tay chết tiệt của tôi xuyên thấu vào người hắn. Các anh biết, vào lúc đó, tôi hầu như không còn hung hăng kịch cảm như lúc ở đầu cầu thang. Tôi cảm thấy sự kỳ diệu thật đầy đủ. Tôi còn nhớ tôi kéo tay ra khỏi người hắn mà rùng mình. Tôi bước sang bàn trang điểm và bảo hắn: "cố bình tĩnh và biến”. Để khuyến khích và giúp đỡ hắn, tôi cũng múa may đôi tay.
Sanderson thốt lên:
- Sao, anh cũng khoa tay như hắn?
- Vâng, các điệu bộ.
Tôi xen vào:
- Nhưng... - rồi im bặt vì một ý thoáng qua đầu tôi rồi tôi quên khuấy mất.
- Chuyện ngộ đấy. - Sanderson thọc ngón tay vào nỏ tẩu, nhịp nhịp - Anh muốn nói là con ma của anh chịu thua?
- Hắn cố tình làm như thể lỡ dịp vượt qua các rào cản vô hình rối tinh đó chứ gì?

Wish phản bác:
- Không, hắn không làm vậy. Hắn không thể biến đi được. Hoặc chính anh cũng phải có mặt ở đó mới phán đoán được.
Tôi chụp lấy cơ hội vì cái ý thoáng qua đầu tôi đã được diễn tả bằng lời:
- Chính thế đấy.
Clayton đang nhìn đăm chiêu vào đống lửa, xác nhận:
- Chuyện đúng là vậy.
Căn phòng chìm vào im lặng một lúc.
Sanderson lên tiếng:
- Và cuối cùng hắn đã biến đi được?
- Sau cùng hắn đã biến được. Tôi đã phải thúc giục hắn kiên trì và hắn biến khá thình lình. Hắn thất vọng. Chúng tôi gây gổ. Rồi hắn bất chợt đứng dậy và yêu cầu tôi múa may lại từ đầu để hắn nhìn. Hắn nói: “Tôi tin là nếu được coi lại tôi sẽ nhận ra chỗ sai sót của tôi ngay." Hắn nhận ra ngay vì hắn nói: "Tôi biết rồi." Tôi hỏi hắn biết cái gì, hắn chỉ nhắc lại tôi biết rồi. Ngay sau đó hắn nói cuống cuồng: "Tôi không thể biến được nếu ông cứ nhìn tôi. Thật sự tôi không làm được. Từ trước tới nay, tôi không làm được việc cũng vì người ta cứ nhìn tôi. Tôi luôn bồn chồn mất tự chủ, đến độ ông nhìn tôi là tôi không lập trung được." Thế là chúng tôi lại tranh luận một hồi. Dĩ nhiên là tôi muốn nhìn xem hẳn biến, nhưng hắn vẫn ngang nghạnh như một con lừa. Hắn làm tôi mệt nhoài. "Thôi được, tôi không nhìn anh nữa." Tôi quay về phía chiếc gương trên tủ ở cạnh giường.
Hắn bắt đầu ngay điệu bộ và múa tay. Tôi nhìn vào tấm gương soi xem hắn có vấp váp chỗ nào không. Cánh tay quay tròn và bàn tay, như thế này, thế này, và thật nhanh tiến đến điệu múa cuối cùng, giang hai cánh tay ra, đứng thẳng thế này. Các bạn biết không, hắn đứng vào rồi hắn không đứng, hắn không đứng đó, hắn không còn ở đó nữa! Tôi xoay người khỏi tấm gương để nhìn hắn. Chỗ hắn đứng chẳng còn gì. Tôi chỉ còn một mình cùng ngọn đèn cầy leo lét và cái đầu quay cuồng choáng váng. Cái gì đã xảy ra? Có cái gì xảy ra không? Hay chỉ là tôi mơ...?

Và rồi như một tiếng chấm dứt hẳn chuyện đó, chiếc đồng hồ trên đầu cầu thang gõ một giờ, thế đấy, boong! Thế rồi tôi vừa nghiêm khắc vừa nhân từ như một thẩm phán, tất cả những champagne và whisky tôi nốc buổi tối đã tan loãng làm đầu óc tôi thanh thản. Cái cảm giác kỳ diệu, thứ kỳ diệu choáng ngợp không thể hiểu được trời ạ!
Clayton nhìn cái tàn xì gà một lúc rồi nói:
- Chuyện xảy ra chỉ có vậy.
Evans gợi thêm:
- Sau đó anh đi ngủ à?
- Còn gì làm ở đó nữa đâu mà không đi ngủ?
Tôi nhìn vào mắt Wish. Chúng tôi muốn pha trò câu chuyện này, nhưng có một cái gì đó, có lẽ ở trong giọng nói và thái độ của Clayton không cho phép chúng tôi giễu cợt.
Sanderson gợi thêm:
- Còn những điệu bộ múa may anh có nhớ không?
- Tôi tin là bây giờ tôi múa lại được.
- Vậy sao? - Sanderson nói rồi mở con dao nhíp nạo sái thuốc trong nõ điếu ra - Sao anh không thử múa xem? - Tiếng anh đóng lưỡi dao cái “rắc”…
- Tôi sẽ múa đây.
Evans khích thêm:
- Múa cũng không biến được đâu.
Tôi có ý kiến:
- Nếu nó linh nghiệm thì…
Wish duỗi chân ra như thể cản Clayton đừng múa:
- Tốt hơn là đừng múa.

Sanderson trấn an:
- Anh ấy có múa đúng được đâu mà sợ. - Vì mãi chuyện anh nhồi thuốc quá đầy vào cối.
Wish không đổi ý:
- Đúng hay không cũng thế thôi, đừng múa là hơn.
Chúng tôi tranh luận với Wish, anh nói rằng múa lại những điệu bộ đó có khác chi nhạo báng một chuyện nghiêm túc. Tôi nói:
- Nhưng anh cũng có tin đâu.
Wish liếc nhìn Clayton đang trầm ngâm nhìn ngọn lửa, cân nhắc điều gì đó trong đầu rồi mới nói: "Tôi tin chứ, tin hơn một nửa. Thế cũng là tin rồi.
Tôi nói:
- Anh Clayton này, anh không bịa chuyện gạt chúng tôi, các chi tiết đều có lý. Nhưng còn chuyện biến đi. Chỉ ngẫu nhiên mà có tính thuyết phục thôi. Có phải chuyện đầu voi đầu chuột không?
Anh đứng phắt dậy, ra đứng giữa thảm, đối mặt với tôi. Anh nhìn vị trí chân anh, nghĩ ngợi một lúc rồi dán mắt vào bờ tường đối diện suốt thời gian còn lại, với vẻ mặt chăm chú căng thẳng. Anh từ từ đưa hai tay lên ngang mày và bắt đầu...
Vì Sanderson là một hội viên Hội Tam Điểm, thuộc Lan the Four Kings, đã miệt mài chuyên nghiên cứu và làm sáng tỏ các bí ẩn của hội Tam Điểm trong quá khứ và hiện tại. Sanderson cũng là một người nghiên cứu không tồi. Anh theo dõi các động tác của Clayton đặc biệt chăm chú với cặp mắt đỏ ngầu. Khi Clayton múa xong, anh nhận xét:
- Anh biết không, xét mọi mặt, anh đã múa được tuyệt hảo, nhưng chỉ sai một chi tiết nhỏ.
- Tôi biết, tôi có thể nói tôi múa sai chỗ nào.
- Nói xem?
- Chỗ này.

Clayton làm động tác vặn tay, uốn éo rồi hất lên.
- Đúng, sai chỗ đó.
- Các anh biết không, chính chỗ đó hắn không múa được đúng. Nhưng tại sao anh...?
- Phần lớn chuyện này và đặc biệt là anh sáng tác nó như thế nào, tôi chẳng hiểu tí gì. Nhưng ở chính đoạn múa đó thì tôi hiểu. Nó là một loạt điệu bộ có liên hệ tới một chi nhánh bí hiểm của Hội Tam Điểm. Chắc là anh biết nhánh đó nếu không sao anh lại...
Anh suy nghĩ xa hơn rồi nói:
- Tôi nghĩ rằng chỉ cho anh vặn tay đúng cũng chẳng hại gì. Tóm lại nếu anh biết rồi thì anh vẫn đã biết; nếu anh chưa biết thì vẫn là chưa biết.
Clayton xác định:
- Tôi chẳng biết gì hơn những điều con ma tội nghiệp làm tối qua.
- Thế thì được. - Sanderson nói rồi để cái điếu đất nung linh thiêng của anh lên bệ lò sưởi. Anh nhanh nhẹn múa vài điệu bộ.
Clayton lặp lại:
- Phải vậy không?
Sanderson nói:
- Đúng rồi." lại cầm cái điếu trong tay.
Clayton hoan hỉ:
- Giờ đây tôi có thể múa may đúng hết.
Anh đứng thẳng trước đống lửa đang lụi dần, mỉm cười với chúng tôi. Tôi thấy có chút ngượng ngùng trong nụ cười ấy.
- Nếu tôi bắt đầu...
Wish phản đối:
- Nếu là anh, tôi sẽ không...
Evans khích:
- Đừng lo gì hết, bài múa đó thì có hại gì. Đừng nghĩ là cái điệu múa cà giựt uốn éo đó, lại có thể hất văng Clayton sang thế giới bóng tối được à? Bạn có thể cứ múa thử, Clayton. Tôi chỉ sợ bàn tay anh rời khỏi cổ tay thôi.
- Tôi không tin là không hại.

Wish đứng dậy, đặt tay lên vai Clayton. Dẫu sao anh cũng làm tôi tin một nửa câu chuyện của anh và tôi không muốn chuyện tương tự xảy ra.
Tôi nói:
- Vậy là Wish đã sợ rồi?
- Vâng, tôi sợ thật."
Wish nói rất nghiêm trang, hoặc là anh sợ thật, hoặc anh đóng kịch đại tài.
- Tôi tin rằng nếu anh ấy làm những điệu bộ múa đúng, anh ấy sẽ biến mất.
Tôi cao giọng:
- Anh ấy sẽ chẳng biến đi được đâu. Đàn ông chỉ có một cách duy nhất biến mất khỏi cõi đời, và Clayton còn cách lúc đó ít ra là ba, bốn chục năm. Ngoài ra... và với một con ma như hắn! Anh nghĩ rằng...
Wish ngắt lời tôi bằng cách đứng dậy, len lỏi qua hàng ghế đến đứng ở cạnh bàn, rồi nói:
- Clayton, anh điên rồi!
Clayton với ánh mắt giễu cợt, mỉm cười với anh rồi nói:
- Wish nói đúng, còn các anh sai hết. Tôi sẽ biến. Tôi sẽ múa hết bài này và đến đoạn nhanh dồn dập kết thúc và "hấp" tôi sẽ biến như một hơi gió thoảng. Trên thảm này chẳng có ai, phòng này sẽ tràn ngập kinh dị và một người nặng chín mươi lăm ký như tôi sẽ lao vào cõi u minh. Tôi quả quyết như vậy và các bạn sẽ phải tin thôi. Tôi không muốn tranh luận gì thêm. Để chúng ta làm thử xem.
Wish nói:
- Không. - bước lên một bước rồi ngừng.

Clayton đã đưa hai tay lên bắt đầu múa may ma quái. Lúc đó chúng tôi ở trong tình trạng căng thẳng tột độ, phần lớn do thái độ của Wish, ngồi bất động dán mắt vào Clayton. Tôi cảm thấy như một luồng thần kinh chạy từ sau sọ qua gáy, xuống hai đùi làm các bắp thịt co cứng lại, và tôi biến thành thép. Trong bầu không khí tĩnh lặng như cõi tiên, Clayton cúi mình, lắc lư, múa may, không một thứ gì xen vào. Khi bài múa sắp hết, người ta cảm thấy như bị đè ngộp: cảm thấy ghê răng.
Động tác cuối cùng, như tôi đã mô tả ở trên, gồm dang rộng hai tay ra, mặt ngước lên. Khi anh làm động tác cuối cùng này, tôi như nghẹt thở. Dĩ nhiên, hơi tức cười, nhưng âu cũng chỉ là cảm giác thông thường khi nghe chuyện ma, sau khi ăn cơm tối, trong bầu không khí ma quái của một ngôi nhà cổ.
- Sau cùng, liệu anh ta...?
Anh đứng đó sững sờ một lúc, hai tay dang rộng, mặt ngước lên, nét mặt tự tin và sáng lên dần dưới ánh đèn treo mờ mờ. Chúng tôi trải qua giây phút dài như thiên thu, rồi tất cả chúng tôi cảm thấy như được giải thoát nhẹ nhõm vô cùng, vừa an tâm anh ấy rõ ràng là không biến được. Tất cả chỉ là chuyện tầm phào. Anh chỉ nói một câu chuyện suông mà lại tin là thật... Nhưng rồi nét mặt Clayton biến đổi.
Nét mặt Clayton biến đổi, nó biến đổi như thể một căn nhà đang sáng thì đèn phụt tắt ngấm. Mắt anh đột nhiên giống như mắt giả, nụ cười đọng cứng trên môi. Anh đứng đó, im lìm bất động. Sau đó hơi lắc lư nhẹ.

Lúc đó cũng dài như cả thế kỷ, rồi ghế xê dịch, đồ vỡ đổ, tất cả chúng đều di chuyển. Hai chân anh khuỵu xuống, anh ngã chúi về phía trước. Evans bật dậy, lao ra nâng anh vào lòng...
Sự việc làm chúng tôi ngồi chết sững. Hơn một phút chẳng ai nói được câu nào thích hợp. Chúng tôi đã vừa tin câu chuyện vừa không thể tin được. Khi hết bàng hoàng, tôi mới nhận ra mình đang quì bên cạnh anh. Sanderson cởi áo vét, mở sơ mi Clayton ra, thò tay vào sờ tim anh...
Nào, nói tiếp, cái sự thật đơn giản trước mặt chúng tôi đã khiến chúng tôi dễ chịu trở lại. Chẳng cần lâu lắc gì chúng tôi mới hiểu. Sự thực nằm đó khoảng một giờ và nằm trong ký ức tôi, đen tối những êm ả lạ kỳ, cho đến ngày nay.
Clayton đã đi vào cái thế giới nằm kề cận và cũng rất xa thế giới của chúng ta. Anh đã sang thế giới đó bằng con đường duy nhất mà loài thọ tạo phải đi qua.
Dù Clayton qua đó vì con ma đó gọi hay vì thiếu máu cơ tim khi kể một câu chuyện ma, như kết luận của ban khám nghiệm tử thi, cũng chẳng giúp tôi phán đoán được. Nó vẫn mãi mãi là một bí ẩn cho đến ngày phán xét sau cùng. Có điều ai cũng biết rằng vào lúc anh kết thúc điệu múa ma biến đi anh biến đổi, lắc lư và ngã xuống chết trước mặt chúng tôi!
anh sex
đọc truyện sex hay
phim sex hay
truyện ma kinh dị

Án Tử Hình_đọc truyện sex hay việt

Án Tử Hình

Nguyên tác: Sentence of Death

Tác giả: Thomas Walsh

Mục một: Ghê rợn và nghiêm trọng nhất là thi thể của ông dược sĩ trung niên, khả kính Carl Sawyer. Mục hai: vẫn là mục gây xúc động thông thường là một thiếu phụ tóc vàng nhạt, hiển nhiên là quả phụ của ông dược sĩ đang sụt sùi khóc như điên dại bên thi thể ông khi Cochran và McReynolds từ phòng Cảnh sát Quận xuống. Mục ba: đối với Cochran và McReynolds đã giải thích tất cả rõ ràng và đầy đủ, đó là cái máy giữ tiền đã bị phá bung để cướp. Mục bốn: chứng nhức đầu do nghề nghiệp thông thường là một cửa hàng lúc này đang đông nghẹt những người hàng xóm kích động và nói nhiều.

anh sex
đọc truyện sex hay
phim sex hay
truyện ma kinh dị
Điều dễ thấy đầu tiên là ai trong số những người này cũng sẵn lòng cung cấp cho Cochran những thông tin đầy đủ và quan trọng. Mãi tới khi anh bắt đầu sàng lọc, loại dần những thông tin vô lý, anh mới thấy chỉ có bốn trong số những người này, là thật sự nhìn thấy một cái gì đó có liên quan tới vụ án. Bà Sawyer và một người khách ngẫu nhiên, Ellen Morison, là nhìn thấy tên cướp bắn. Hai người nữa là một cặp vợ chồng, thoáng thấy một người đàn ông từ trong tiệm thuốc lao ra sau khi súng nổ, chạy đến một cái xe đậu cách đó từ mười đến mười hai mét dưới bóng rợp một cái nhà. Hai vợ chồng ông này còn nhất trí về một hai điểm đặc biệt của cái xe. Ellen Morison là một cô gái thon thả, linh lợi, tóc nâu, đôi mắt đen thông minh, giọng nói gợi cảm, ý nhị, đã mô tả người đàn ông này.

Cô cho Cochran biết, cách đây mười lăm đến hai mươi phút, cô bước vào tiệm thuốc, người đó đang đứng trước ông Sawyer. Họ đứng rất gần nhau, lệch về bên trái cái máy giữ tiền một chút, đến nỗi lúc đầu cô tưởng người đó là bạn của dược sĩ, và họ đang tán dóc với nhau. Thình lình hắn quay lại nhìn cô rất nhanh. Rõ ràng hắn hoảng sợ. Hắn bắn ông Sawyer hai phát rồi đập cái máy két tiền. Cô khai rằng hắn khoảng hai mươi tám tuổi hoặc già hơn một chút, tóc vàng hoe, người dong dỏng và cằm nhỏ, nhọn. Cô ấy nói không ra hơi vì cô bị chấn động trước cảnh đó. Điều đó cũng tự nhiên thôi. Vì cô nhớ được sự việc rõ ràng về nhân dạng - tuy chỉ có chi tiết nổi bật nhất và dễ nhận - nên Cochran cho ngay cô là nhân chứng đáng tin nhất.

Cặp vợ chồng chỉ nhìn bán diện tên cướp đang chạy và là những người duy nhất nhìn thấy cái xe. Họ tả cho Cochran đó là chiếc xe hòm màu đen hay xanh đậm có thanh cản phía sau trầy xước ở bên phải. Một người cho rằng hắn mặc bộ đồ nâu, giày nâu, người kia lại cho rằng hắn mặc quần áo kiểu thể thao xám. Cả hai người đều khai, giống Ellen Morison, hắn không đội mũ và tóc hoe vàng.

Trong lúc đó McReynolds, trước hết cố trấn an bà Sawyer, sau đó sẽ phỏng vấn. Nhưng cả hai việc anh đều không đạt được. Bà ấy chẳng ý thức được McReynolds là ai và đến với mục đích gì. Bà cứ lắc đầu quầy quậy, chẳng thèm nhìn McReynolds nữa, như thể hà vẫn còn bị sốc nặng. Cochran chẳng lưu ý gì đến bà. Anh cho rằng cần bắt một đối tượng có tuổi đã chắc chắn, hình thể và nước da đã xác định được, có một cái xe hòm rẻ tiền, với cây cản sau trầy móp, có súng và rất có thể đã có tiền án tiền sự.

Anh cùng McReynolds bắt đầu đi tìm tung tích hắn. Bắt đầu họ kiểm tra hình ảnh và hồ sơ ở phòng cảnh sát quận. Họ đồng ý có vài phạm nhân cũ đáng nghi ngờ, thế là họ vây bắt bốn người. Rồi hai ngày sau bắt họ sắp hàng để nhận diện. Bà Sawyer còn hoảng loạn chỉ ngay một trong bốn người. Cặp vợ chồng làm chứng cùng đồng ý với việc nhận diện của bà Sawyer. Truy nhiên theo Cochran họ chỉ đoán chắc được khoảng một nửa mức quả quyết mà họ tưởng thôi. Nhưng cô Ellen Morison không chịu xác nhận là người này. Cô ấy là người làm chứng mà Cochran tin tưởng nhất, cô khai rằng người cảnh sát đưa ra trông hơi giống, nhưng không giống nhiều người đã bắn ông dược sĩ. Cô ấy không quả quyết là người này, mà cũng không phủ nhận. Cô nói với Cochran một cách ngượng ngùng là cô nhớ hung thủ già hơn và cao hơn người này. Cô ấy lắc đầu.

McReynolds bất nhẫn tức bực với cô này còn Cochran e rằng những người mất người thân, đang có tang thường chỉ ngay những người hao hao giống là thủ phạm, nên phán đoán dè dặt và đi xác minh một vài điểm như thủ tục thông thường. Anh phát hiện các sự thật sau: người đàn ông mà bà Sawyer đã nhận diện coi là thủ phạm là tay phụ lái xe tải, tên Johnny Palica, mạnh mẽ, quả quyết, đã bị bắt vài lần vì hành vi bất hảo; đang sống với một em rể có cái xe hòm rẻ tiền màu đen. Vào đêm có án mạng, thứ Năm vừa qua, Johnny Palica được phép dùng xe, cái xe có vài vết hằn sâu ở thanh cản sau. Hắn lái xe ra khỏi nhà từ chập tối và quá nửa đêm mới về. Hắn khai với Cochran là lái xe đi vòng vòng với bạn gái. Một người đi với bạn gái thế còn làm gì được? Hoặc hắn làm mà ngay cả bạn gái hắn cũng không biết và giữ kín được? Rồi, vậy thì...

Cô bạn gái của hắn cũng xác nhận như vậy. Cô không phải là người làm chứng quan tâm tới vấn đề và cũng không hẳn là thờ ơ, có điều chỉ có mình cô làm chứng cho hắn. Còn ba người nữa cũng tố cáo Johnny Palica, họ bây giờ còn quả quyết hơn lúc đầu. Hai trong ba người này còn nhận ra chiếc xe của người em rể hắn nữa. Cô cô Ellen Morison cũng vẫn không nhất quyết về hắn. Lời biện hộ trước tòa rất yếu, trình bày không hiệu quả, nên Johnny Palica bị kết án tử hình. Sau vụ án này, vì vài lý do, Cochran tránh mặt McReynolds. Rồi một buổi chiều anh cảm thấy bệnh thật sự khi phát hiện chính McReynolds cũng tìm cách tránh mặt anh.

Cả hai anh đều biết, nếu nhận diện ở hoàn cảnh bị kích động và áp lực thì chẳng đáng tin lắm. Qua công tác, các anh đã có một linh cảm sâu sắc về vấn đề này. Các anh rất ngại khi gặp những trường hợp tương tự. Họ không bàn bạc lại vụ này với nhau về vấn đề ngoài thẩm quyền của các anh. Nhưng các anh cũng chẳng quên được nó.

Tháng Ba đã đến. Vào ngày năm tháng Ba lúc hai giờ ba mươi chiều, Cochran nhận được cú điện thoại mà đã nhiều lần anh bồn chồn, tuy vô lý, trông đợi lâu nay. Anh nghe tiếng McReynolds:
- Anh có nhớ cô Morison không?"
Ngắn gọn, không lộ thêm tin tức gì. Có lẽ quá ngắn gọn.
- Cái cô không quả quyết Johnny Palica là thủ phạm hay không đấy mà?
Cochran giả vờ không nhớ để McReynolds không đoán được ý anh.
- Không, hình như tôi không nhớ. Đợi chút, phải cô này không?

Anh lau mép cẩn thận rồi hỏi:
- Bây giờ có chuyện gì? Chuyện gì nào?
McReynolds nói tỉnh khô:
- Tin quan trọng. Cô ấy mới cho tôi biết Palica không phải là hung thủ. Cô nói lúc này thì cô quả quyết được như vậy. Anh nên đi nghe ngóng xem, Ray, coi chừng chúng ta gặp rắc rối đấy.
Lấy taxi xuống Cảnh sát Quận, anh thấy McReynolds và cô Ellen Morison đang ở trên lầu, cùng với một thanh niên lăng xăng, láu táu, tên Wilson, một tên vô danh tiểu tốt trong văn phòng Trưởng Công An Quận. Cochran được Wilson cho biết cô Morison đã trông thấy - hay nghĩ là đã trông thấy tên thủ phạm thực đã bắn dược sĩ Cal Sawyer, tối hôm qua, bên ngoài một quán rượu trên Third Avenue. Wilson nói thêm gọn lỏn:
- Cô ấy đoán chắc như vậy vì hắn đã quay lại nhìn cô giống hệt như hắn đã nhìn cô trong tiệm thuốc đêm nọ.
Cô ấy tin là hắn không nhận ra cô, nên cô đi báo và dẫn một cảnh sát tới. Hắn đã biến mất rồi. Một người phục vụ ở quán rượu nói là có nhớ ra hắn nhưng rất tiếc anh không cung cấp thêm được tin tức gì. Wilson kết luận:
- Có lẽ hắn mới là hung thủ đấy.
Một lúc im lặng nặng nề.
Cochran chờ đợi McReynolds phá tan sự yên tĩnh. McReynolds chiều hôm đó coi nhợt nhạt, hốc hác, dường như cũng đợi Cochran.

Sau cùng Cochran đành nói:
- Ồ, chưa chắc... - hất cái mũ ra sau, chu môi rồi ngồi xuống một góc bàn, hai tay đặt trên đùi.
Người ở văn phòng quận nói:
- Đúng hắn đấy!
Với một giọng như thể câu nhận xét vừa rồi của Cochran khôn ngoan, sâu xa lắm.
- Toàn bộ vụ việc xem ra đơn giản như chuyện trẻ con ấy. Tối qua cô Morison thấy một người rất giống Palica. Ngay tức khắc, cô…
Cochran nói:
- Chúng ta không tìm ra súng.
- Cứ cho là vậy đi. Tôi cũng muốn tìm ra hung khí lắm chứ. Nhưng khi ta đã thuyết phục được cả một bồi thẩm đoàn không cầm súng, tôi không thấy...
McReynolds thình lình xổ ra một cách giận dữ hung hăng như thể lời nói từ trào ra.
- Đợi chút, tôi và Cochran chịu trách nhiệm về hắn, không phải ông. Khi điều tra vụ đó, tôi cũng đổ mồ hôi máu ra mà chẳng đáng kể sao. Tôi không muốn quan tâm thêm tới người đó, không bao giờ.
Cochran cũng đồng ý tới đây - như thể hai người tự khích nhau - nâng bàn tay phải khỏi đùi, xem xét hai bên bàn tay rồi quyết định tiến xa thêm chút nữa.
Cochran nói:
- Tôi đã từng thấy những bà bồn chồn, hoảng loạn như bà Sawyer nhận ngay những cảnh sát được xếp vào hàng cho các bà ấy nhận dạng, là hung thủ. Đúng là cặp vợ chồng làm chứng cũng đồng ý với bà Sawyer. Những người làm chứng kiểu này thường hùa ngay theo với người nào quả quyết trước nhất. Tôi đồng ý với ý kiến vừa rồi của Mac. Chúng ta bàn về điểm đó đi.

Cô Ellen Morison có vẻ bồn chồn nhưng quả quyết, nhìn Cochran rồi nói nhỏ nhẹ:
- Cám ơn ông, tôi cảm thấy dễ chịu hơn rồi. Tôi đã khai trước tòa là người bắn ông Sawyer, người mà tôi báo cho các ông tôi thấy ngoài quán rượu tối qua, gầy hơn, già hơn và cao hơn nhiều người mà các ông bắt. Các ông đã đối xử với tôi như thể tôi chẳng biết mình nói gì. Tôi không quả quyết được lúc đó. Nhưng bây giờ thì tôi quả quyết được rồi và nhất định phải làm.
Người của cảnh sát quận hết khó chịu tức giận, bây giờ lại có vẻ quan tâm lo lắng đến vụ án. Tiếp theo đó họ bàn luận rất sôi nổi và đi đến quyết định việc đầu tiên phải làm, nếu muôn có những tiêu chuẩn khả dĩ khi so sánh nhận dạng, là để cô Ellen Morison nhìn lại Johnny Palica một lần nữa lâu hơn. Viên Trung úy từ đầu đến giờ đã khôn khéo né tránh cuộc hội ý này từ đầu được triệu vào. Viên Trung úy liên lạc với trung tâm và trung tâm bố trí cho gặp một Đại úy Mooney nào đó.
Tám giờ ba mươi sáng hôm sau, Cochran và cô gái cùng xuống chỗ giam tử tù. Cochran cứ nghĩ tới nó là bồn chồn áy náy. Đại úy Mooney đang đợi họ. Họ bắt tay nhau rồi trình bày công việc một lúc. Mooney liếc xéo nhìn cô Morison, mặt mày chẳng lộ một cảm xúc nào, dẫn họ ra khỏi phòng khách, vào một hành lang dài có các cửa sổ cao với chấn song sắt. Họ đi ngang qua hai người mặc đồng phục lính gác khám, dừng trước một cửa sắt được mở khóa từ bên trong. Mặc dầu cùng đi với Đại úy Mooney, họ cũng lại phải đợi một lúc lâu trước cửa thứ hai ngay cạnh cửa thứ nhất, cũng đồ sộ chắc chắn như vậy, cho tới khi cửa họ mới qua được đóng và khóa lại cẩn thận. Sau đó họ còn phải qua nhiều cửa khác, nhiều lính gác, nhiều hành lang khác nữa, mới tới một cái sân. Lại một cái sân nữa mới tới một tòa nhà cô lập. Bước vào tòa nhà đó mà chẳng được giới thiệu là nhà gì. Cochran bồn chồn liếm mép một cách kín đáo. Anh không nhìn cô Morison và cũng chẳng muốn nói gì với cô.

Họ dừng lại trước một phòng. Các phòng có cấu trúc nhất loạt: tường vàng, sàn gỗ nâu, một cái bàn gỗ rẻ tiền, trên có cái bàn giấy thấm dơ bẩn, một cái gạt tàn thuốc sạch bóng, hai cái ghế, một đèn trần được bảo vệ vững chắc. Trong phòng này có sự hiện diện đặc biệt nhưng không lầm lẫn được của một người đang đợi gặp anh. Cochran biết vì sao, anh và McReynolds chịu trách nhiệm chính về việc người đó ở đây. Anh bước vào phòng.
Ellen Morison không được nói chuyện với Johnny Palica, mà chỉ được quan sát anh ta qua mảng lưới sắt gắn chìm trong cửa ngoài ngang tầm mắt, từ tiền phòng. Đại úy Mooney vào theo sau Cochran, liếc nhìn hắn rồi ra bằng lối khác. Ngay khi Cochran được để lai một mình trong phòng, dưới ánh đèn chói chang, sự im lặng tuyệt đối làm anh bất an, khó chịu. Vài phút trôi qua và Cochran cảm thấy chúng trôi qua cực kỳ chậm. Anh nghe những bước chân trên hành lang trong, anh thọc hai tay vào hai túi quần để cố chịu đựng, đứng vững.
Mooney vào và nói:
- Được rồi - bằng một giọng giản dị thản nhiên - Vào đây Johnny. Anh còn nhớ Cochran chứ?
Cochran nói ngay từ nào xuất hiện trước trong đầu:
- Hẳn rồi. - Anh nói mà cảm thấy môi mình ướt nhép như bột nhồi - Chắc chắn là anh ấy còn nhớ rồi... bước hẳn vào đi, ngồi xuống đây anh bạn. Mạnh giỏi không?
Anh định bắt tay người tù, nhưng rồi ngượng ngập dừng lại vì rõ ràng Johnny Palica chẳng tỏ dấu hiệu gì là nhớ anh cả. Vì vậy và vì ý nghĩa của sự việc xảy ra, khiến cái giọng của anh định dùng là ngôn từ quan thoại, chính thức nhưng không kém thân thiện, sau vài phút đã thành giả dối lố bịch. Ngôn từ đó chẳng có tác dụng gì lúc này, vì Johnny Palica nhợt nhạt hơn, trầm lặng hơn, bối rối hơn lúc trước. Nhưng ngay khi nhận ra được Cochran, Johnny cố gắng hết sức, hết thiện chí để tỏ ra hòa hoãn.
Không còn sức cang cường, vẻ thách thức ở hắn nữa, hắn đã suy sụp khả quan. Không do Mooney, không do vài tháng ở tù mà do một tư tưởng, một cái ngày nhất định mà Cochran và McReynolds đã sắp xếp cho hắn. Hắn nhăn răng cười một cách ngượng ngùng và khi thấy Cochran không đáp ứng cái nhăn răng cởi mở, hắn vụng về từ từ mở rộng thành hạ miệng.

Hắn nói:
- Khỏe, tôi vẫn bình thường, ông Cochran. Tôi... ông có tin tức gì không?
Đây là lần đầu tiên hắn nói với Cochran xưng hô là ông. Nhưng đây chỉ là chuyện vặt, chấp nhất làm gì? Nhưng ngay lúc này Cochran đang toát mồ hôi vì anh nhớ lại lời Mooney dặn không được làm gì kích động hắn và không được tiết lộ gì về cô Morison cho đến khi cảnh sát có vài sự thực chắc chắn để tiến hành các bước kế tiếp.
Anh lí nhí nói rằng chẳng có gì mới trong vụ này, không mới. Các cơ quan tố tụng vụ này chỉ muốn biết Johnny có muốn khai lại chuyện mình làm vào tối hôm đó không. Nếu muốn...
Hắn muốn, hắn gật đầu lia lịa. Bởi vậy Cochran hỏi hắn vài câu mà anh và McReynolds đã bàn bạc và xét các câu trả lời của hắn rất kỹ, đầy lòng nhân ái cách đây vài tháng. Rồi Cochran giả vờ hết sức chăm chú nghe những gì hắn nói, thậm chí còn kiểm tra mọi điều, mọi chi tiết nhờ cuốn sổ tay bỏ túi.
- Chắc rồi, chắc chắn vậy.
Cochran lẩm bẩm, ngay cả khi những câu đi trước chẳng có gì dính dáng tới chắc và đúng cả. Anh mạnh mẽ nói thêm còn một chuyện nữa anh và McReynolds sẽ kiểm tra lại ngay. Họ nói chuyện với cô bạn gái của Johnny Palica và rà soát lại toàn bộ vụ án kỹ càng. Họ sẽ...
Anh có thể làm bất cứ chuyện gì, nói bất cứ chuyện gì, hứa bất cứ chuyện gì để nhanh chóng được ra khỏi cái phòng này, để tránh cái nhìn của Johnny Palica đang quan sát anh.
Anh suy nghĩ hung lắm, như thể anh cần giúp đỡ, bảo đảm từ một nơi nào đó, không như thể anh hy vọng mà như thể anh muốn vậy. Và rồi, khi Mooney chấm dứt cuộc gặp gỡ này, khi Cochran cầm áo khoác lên, nói vài lời tận tình, vui vẻ, ra khỏi đây, nhưng lại gặp chuyện tệ hơn. Ở phòng ngoài Ellen Morison đang đợi anh.
Mặt cô tái nhợt, mắt cô nhìn cực kỳ lạ lùng, cô không muốn nói gì thêm với Cochran nữa cũng ngang bằng anh muốn nói chuyện với cô ấy. Cô chỉ lắc đầu về phía anh. Cochran nghĩ, dĩ nhiên cô muốn nói rằng anh và McReynolds đã bắt lầm và khiến anh ta bị tử hình oan còn tạm nhốt ở đây Bởi vậy, anh ngoảnh mặt không nhìn cô. Anh cũng chẳng tự hỏi Morison có đúng về trường hợp của Johnny Palica không.

Trước khi quay đi chưa được nửa vòng, một chuyện tệ hơn lại xảy ra cho anh. Anh cảm thấy nó.
Về cuối chiều hôm đó, McReynolds cũng cảm thấy chuyện tệ hại hơn đó. Anh không bàn luận cho ra lẽ với Cochran, mà chỉ gật gật đầu nhiều lần, nuốt nước bọt một lần, lấy mũ và cùng Cochran lái xe đi gặp bà Sawyer.
Họ thấy chuyện gì đó đã xảy ra cho bà ấy, bà ấy không còn là một phụ nữ nhỏ nhắn, hồng hào, khôn lanh và đoan trang với cặp mắt xanh và mái tóc vàng bồng bềnh nữa. Bà ấy già trông thấy, và trong buổi nói chuyện, bà ấy từ từ khép kín, cay đắng, bồn chồn và cuối cùng lại thác loạn tâm thần.
Bà ấy vẫn còn tin là Johnny Palica giết chồng bà ấy và bây giờ, Cochran nghĩ rằng nỗi tuyệt vọng, hận kẻ giết chồng, cô đơn đã tàn phá bà. Bởi vậy anh và McReynolds không nói vấn đề với cặp vợ chồng làm chứng nữa vì bây giờ đã vô ích, trừ phi và chỉ tới khi hai anh đã lung lạc được ý kiến của bà Sawyer trước đã.
Tối hôm đó McReynolds xuống cảnh sát quận kiểm tra lại các hồ sơ tìm các hình ảnh khác, nhân dạng khác gần giống Johnny Palica nhất. Cùng lúc đó, Cochran và Ellen Morison rình canh ở bên ngoài quán rượu Shanvock ở Third Avenue. Họ có thể canh ở đây, trong cái xe mui trần của Cochran năm, sáu giờ mỗi đêm - những giờ khuya - và bảy đêm một tuần. Họ có thể ngồi đây đến một giờ ba mươi sáng, với những chuyến xe lửa rầm rầm đơn điệu chạy trên cầu vượt, với gió tháng Ba quất vi vút vào mình, sau đó Cochran có thể đưa cô gái về nhà, ghé đâu đó nhấp một tách cà phê rồi về nhà. Có lên giường anh cũng không ngủ yên được, vì cà phê và có lẽ còn vì những chuyện khác nữa. Anh thao thức một chút rồi thiếp đi được một chút, lại giật mình thức dậy vì như có ai vừa gọi tên anh, từ một cõi xa xăm nào đó nhưng rất rõ ràng. Anh không thể nghe rõ được giọng nói. Không phải âm thanh - nhưng anh nhận ra nó ngay. Cuối cùng những tiếng gọi đó hiện hữu với riêng anh.
Anh biết giọng nói đó đòi hỏi gì ở ông Cochran. Anh biết rõ như vậy ngay từ lần đầu tiếng gọi vọng tới anh, và các lần sau nữa. Nhưng anh không thể làm gì có ích vì nếu lời kêu gọi dựa trên những chứng cứ mới, anh và McReynolds sẽ cần một người như thế này. Các anh không thể tìm ra hắn, cũng không nghĩ ra cách để tìm hắn. Lúc đầu họ có mười hai tuần, còn mười, còn tám, rồi còn sáu tuần, chẳng có gì mới ở trung tâm, cũng chẳng có gì mới ở quán Shamrock.

Đôi khi anh đã mòn mỏi vì mục đích này. McReynolds cũng ngồi rình với bọn anh vài giờ, các giờ còn lại thì chỉ có anh và cô gái, chẳng có ai khác ngồi cùng. Trong khoảng thời gian này, Cochran đã có thể mô tả được cô gái kỹ hơn, ít là một phần, mặc dù anh chẳng giữ một ấn tượng cá nhân, riêng tư độc đáo về cô. Đôi khi anh cũng mơ hồ nhớ lại mớ tóc đen của cô, sự mềm mại tinh tế của đôi môi cô nhưng chưa bao giờ chúng quyến rũ anh hơn những cặp môi của các cô gái khác. Anh thích cô ta thật nhưng chưa bao giờ anh nghĩ tới cô như anh nghĩ tới một hai cô khác. Anh chưa có dịp.
anh sex
đọc truyện sex hay
phim sex hay
truyện ma kinh dị
Trong những buổi canh chừng theo dõi đơn điệu, dài lê thê này, hai người không nói chuyện nhiều, vì ý nghĩa khủng khiếp của cuộc rình mò khiến cho việc nói chuyện thông thường thành vô nghĩa. Thế mà, mặc dù vậy họ cũng tạo được mức độ thân mật rất mới và bất thường với Cochran nếu có dịp suy nghĩ lại.
Rất nhiều khi, thay vì ngồi im lặng chờ đối tượng xuất hiện, cô lại cố ép anh công nhận vài người khách không quan trọng của quán giống như đúc với kẻ đang bị truy lùng. Bởi vậy một lần vào tuần lễ thứ sáu, anh đã giải thích một cách khách quan cho cô gái hiểu, không cần phải nôn nóng về việc này, vì ở đây họ chỉ dùng được kiên nhẫn, kiên nhẫn và kiên nhẫn. Cô không thể hối thúc những chuyện như thế này được mà phải đợi cho lới lúc chúng xảy ra. Họ đi tới kết luận là phải mai phục trường kỳ.
Nhưng cô gái thấy ngay là lúc này, tại đây anh chẳng tha thiết với cái quyết định sẽ đạt được ở ngoài quán rượu, cô ngồi thu vào một góc ghế rồi nhìn anh.
Cô nói:
- Em nghĩ rằng họ vẫn làm việc đúng thủ tục nhưng chỉ lần này...
Cô chẩu môi ra một lúc:
- Không phải em chán nản, em không tin trong một giây phút nào lần này chúng ta lại bắt lầm, một lỗi lầm tàn ác, quỉ quái. Ờ, ta đợi cơ hội. Ta sẽ tóm được hắn. Anh cứ đợi mà coi.
- Tôi mong được như vậy.
Nhưng khi nhìn ra đường Third Avenue nhạt nhòa, hoang vắng dưới cơn mưa, thứ ánh sáng vàng ướt át trải xuống cái vỉa hè đá đen trước quán rượu, anh cảm thấy buồn vô hạn.
- Thế nào ta cũng có dịp.

Cô gái nói đầy tự tin làm Cochran đến kinh ngạc:
- Ồ, ta sẽ làm được hơn thế nữa... hơn nhiều. Sự việc đâu có xảy ra may rủi như vậy. Nếu thế thì chuyện be bét này còn ý nghĩa gì.
- Có lẽ không thế.
Cô nói tiếp:
- Dĩ nhiên chuyện đó là điên khùng - Cô vẫn luôn bình tĩnh, không nói nhiều về chuyện đó. Lần này cô thêm - Từ đầu đến cuối kinh hoàng quá. Đến đây chúng ta mới tin có những sự việc đúng và quan trọng. Nếu ta không...
- Những sự việc gì?
Cochran giật mình hỏi. Đây là lời hàn đầu tiên của cô làm anh chú ý.
- Anh cứ nói tên một cặp đi, em thích điều tra về họ.
À ra thế, trong các đề tài, họ bắt đầu bàn đến đề tài sâu xa, trừu tượng nhất. Họ có thể tranh luận từ hai quan điểm đối kháng nhau, không bằng kỹ thuật tranh biện, không căn cứ vào những lý thuyết triết học, mà bằng những tích lũy phán đoán, kinh nghiệm và trực giác của mỗi người. Cochran buồn bã nghĩ rằng, nếu cô ấy biết được một nửa những điều anh biết, hoặc hiểu được một nửa sự thực về mặt trái đen tối của bản tính con người, cô sẽ không nói nhiều về sai sót của vụ án như vậy dù có được phép hay không. Các sự việc xảy ra, đó là tất cả cái người ta có thể nói về sự việc.
Lúc đầu cô hăm hở, sau đó bồn chồn, rồi ngạo nghễ nhưng dĩ nhiên, cô không thuyết phục được Cochran. Cái mà anh thừa nhận - một cách miễn cưỡng và không phải vì cô - là cảm thấy dễ chịu hơn khi cứ nhìn việc này theo cái nhìn của Ellen Morison, tin vào lý của sự việc, tin là có một người nào đó, ở một nơi nào đó, đang đưa mắt dõi theo hướng của Ray Cochran hay Johnny Palica.
Một ý nghĩ loại này tạo cho anh cảm giác được bảo vệ cần thiết. Anh đã chấp nhận quá nhiều, lại tự ý chấp nhận, rồi từ từ mặc dầu anh kiên quyết, anh trở nên yếu hơn so với lý luận của anh, lại nghe theo cô gái thêm một ít.

Vào đêm thứ Sáu lúc mười giờ ba mươi phút, anh đã tuyên bố: “Ta sẽ hạnh phúc hơn, sống cuộc đời hữu ích hơn, nếu biết chia sẻ niềm tin của Ellen Morison”. Không phải niềm tin của anh, những điều đó chẳng chứng minh được gì, anh cũng thấy vậy. Sự thật là sự thật. Và nếu...
Một người đàn ông chẳng giống Johnny Palica chút nào, đậu xe trước mặt họ rồi vào quán Shamrock. Cochran liếc nhìn ông ta rồi thôi. Nhưng Morison sợ cứng người, kêu một vài tiếng lắp bắp không ra hơi, bám lấy cánh tay anh.
Anh ra khỏi xe, trống ngực đánh thình thình.
- Được rồi, em cứ trụ ở đây. Đừng để hắn biết gì về em. Anh chỉ nhìn kỹ hắn một chút rồi ra ngay.
Anh bước vòng qua đầu xe vào quán... và đứng chết sững.
Người đàn ông mà Ellen Morison vừa nhận dạng cho anh, cao hơn Johnny Palica ít nhất mười centimet, già hơn nhiều, khỏe hơn nhiều. Ngoài mớ tóc vàng hoe ra, ông ta chẳng có nét thực thể nào giống Palica cả.
"Thế này là thế nào?" Anh im lặng tự hỏi. Một cái gì đổ vỡ trong anh. Anh buồn bã trở lại xe với cô gái, nhưng lúc này về cô chỉ là tức giận câm lặng và khinh bỉ đến hận thù.
Cochran tự hỏi, liệu cô có hiểu những điều cô gây ra cho anh và McReynolds từ sáu tuần nay không. Liệu cô có ý thức được việc cô đã cho các anh một manh mối, rồi cùng mai phục ở đây hàng đêm, cho đến khi cả hai anh như muốn vỡ tung cái đầu?
Cô có vẻ kích động đến xanh xám mặt mày, nhưng chắc cô chẳng hiểu gì về những điều anh suy nghĩ.
- Có chuyện gì vậy? - Cô ấy nói hổn hển. Tại sao anh…. Hắn chính là hung thủ. Cochran! Tôi biết hắn là phạm nhân! Anh cho là tôi...?
- Vậy thì sai lầm ở đâu, trời ơi!
Cochran nói như la vào mặt cô. Anh đấm rầm rầm lên mui xe như thể sức lực anh vô tận.
- Làm sao mà có ai lại có thể lầm người này với Palica được? Cô luôn bảo với chúng tôi phải nhào vào chộp bắt mọi người. Chúng tôi chỉ được cô giúp vậy thôi.
- Nhưng chính là hắn mà! - Cô thò đầu ra khỏi xe, bồn chồn nói với anh. Dĩ nhiên bây giờ hắn có để bộ ria.

Chính vì vậy mà anh...
Cochran quay ngoắt khỏi cô, điên tiết. Anh vào xe mà chẳng cần nhìn, đóng cửa xe, xếp chéo hai cánh tay trên tay lái rồi gối một bên đầu lên đó, mặt quay ra ngoài. Như vậy đỡ phải nhìn thấy cô ta.
- Ông ta cũng cao lớn thêm nữa.
Giọng của Cochran làm cô im bặt.
- Ông ta lớn thêm được khoảng mười centimet. Tôi và ông McReynolds đúng là loại đầu bò. Cả bọn ở trên phòng cảnh sát quận cũng bị cô thuyết phục. Chúng tôi tưởng là cô biết rõ những gì cô nói. Chúng tôi ngu ngốc đã nhảy vào lửa vì những người như cô...
Cô gái lắp bắp vài câu chẳng đâu vào đâu. Tại sao anh ấy lại nói năng như vậy? Tôi không cùng các anh rình bắt kẻ sát nhân cả mấy tuần nay sao? Và giờ đây kẻ ấy đang không ở trong tầm tay các anh sao?
Cochran không trả lời cô, ý định có trong đầu anh lúc này là, nếu người này trông giống Johnny Palica, họ lại phải cưỡng bức các nhân chứng phải nhận là họ lộn và ngay cả đã lầm lẫn. Nhưng theo cách này thì không ai, chẳng phải bà Sawyer, chẳng phải cặp vợ chồng nhân chứng, chẳng ai ở văn phòng cảnh sát quận chiếu cố cho anh. Vậy...
Cô gái lại lắc anh. Cô thỏ thẻ một cách đau khổ.
- Nghe em, Cochran, xin vui lòng nghe em. Nói cho anh biết...

Người đàn ông đó ra khỏi quán Shamrock, ông gặp trở ngại gì đó khi khởi động xe - Cochran cũng chẳng thèm để ý- sau đó lái ra đại lộ Third Avenue. Một lúc sau, Cochran - một cảnh sát thận trọng - mở công tắc xe rồi ra đại lộ Third Avenue theo sau người đó. Họ lái về hướng Bắc thành phố.

Giờ đây Cochran chỉ bám theo người đó như một bản năng khi đã vào cuộc, anh chẳng còn nhắm mục đích của vụ việc nữa. Anh vẫn còn giận cô gái, anh còn cảm thấy mới đầu cô gái tranh luận với anh, rồi thuyết phục anh, rồi - mắc cỡ hơn cả là - khiến anh tin Ray Cochran là một điều tra viên đặc biệt, hơn hẳn các người khác trong lực lượng cảnh sát quận, đã được giao trọng trách sửa chữa lại một sai lầm; và anh đã rã rời ra từng mảnh vì chẳng biết tiến hành công việc như thế nào. Anh luôn vui vẻ và sáng trí, anh nghĩ bạo, có lẽ phải dùng đến phiếu phạt xe. Cái gì cũng có lý do của nó. Ô, chắc ăn rồi! Tốt, lý do rất vững và logic, nếu bạn đủ ngốc nghếch để hiểu đó là những lý do nào. Nếu...
Hai lần cô gái định nói chuyện với anh, hai lần Cochran quyết không nghe. Chiếc xe hòm phía trước quẹo vào một đường phụ nhỏ, hơi quen quen với anh. Anh theo sát, anh thấy ở khoảng giữa phố, một căn chung cư cũng quen quen.
Thế rồi khi chiếc xe hòm đậu trước chung cư, anh nhận ra tòa nhà này và sửng sốt đến độ tê liệt.
Anh lẩm bẩm cái gì đó, lái qua cái xe hòm, qua người đàn ông đang bấm chuông trước nhà, và đậu lại cách đó vài căn. Giờ đây anh nhận thấy, không còn ghét nữa, một cách vô tư không bị tình cảm chi phối, cô Ellen Morison trông nhợt nhạt, lo sợ và khổ sở. Anh tự hỏi bây giờ cô bị sao vậy? Cô bị...
Anh bảo cô ra khỏi xe, chỉ cho cô chỗ điện thoại và điều phải nói với McReynolds. Sau đó anh trở lại xem cái xe hòm, mọi suy nghĩ của anh trở nên nhanh chóng, sắc sảo và quyết định. Tim anh lại hồi hộp đập thình thịch. Anh thấy một cái xe cũ vừa được sơn lại, chẳng còn vết trầy móp ở thanh cản sau. Anh và McReynolds sẽ tìm ra cái gara mới sơn xe lại và nơi vỗ cái cản móp. Anh tự nghĩ ra vẻ nghiêm trọng, anh sẽ nhờ cặp vợ chồng làm chứng nhận dạng là chính cái xe này, phải là họ nhất trí mới được.

Anh rời chiếc xe, nấp vào một cửa nhà tối phía dưới một chút. Cô gái trở lại, anh vẩy như ra lệnh cho cô đến chỗ anh. Cô lơ là chẳng cần nghe anh giải thích gì cả, mà anh thì đâu còn giờ chăm sóc cô ta lúc này. Anh lấy ra hai điếu thuốc lá, rít thật sâu. Rồi xe của McReynolds trờ tới. Cochran huýt sáo hai lần. Chiếc xe đậu lại.
Họ bàn luận tình hình công việc một chút, Cochran cho biết tại sao anh lại mò được tới đây. McReynolds nắm được tình hình tức khắc. Họ bố trí các nhân viên khác ở lối vào sau nhà và ở cửa thoát hiểm. Cochran và McReynolds vào nhà sau khi bấm chuông ở tầng cao nhất nơi họ không có mục đích lên. Họ lên hai đoạn cầu thang rất nhanh, hít một hơi đầy phổi rồi bấm chuông ở tầng hai này. Sau một lúc, cửa hé mở khoảng mười centimet, Cochran lùa tay vào đẩy cửa mở rộng ra rồi bước vào phòng. Người đàn ông tóc hoe vàng, ria lún phún ở đây. Cochran bước đến chỗ hắn, mỉm cười tàn độc và đập hắn một cú nên thân. Cochran đập hắn túi bụi chẳng cho biết lý do gì cả. Anh chỉ cảm thấy phải làm như vậy và cảm thấy dễ chịu. Trong lúc đó, McReynolds làm công việc đợi anh làm là chăm sóc bà Sawyer.
Dĩ nhiên, sau biến cố này thì mọi việc đã rõ ràng. Lúc này Cochran mới tự bảo mình lẽ ra phải để ý kỹ hơn lời khai của cô Ellen Morison ngay từ đầu. Cô đã chẳng nói là tên cướp đứng sát ông Sawyer như thể họ là bạn bè là gì?

Bà Sawyer đã chẳng vờ bị kích động và thác loạn tâm thần khi Cochran và McReynolds trở lại hỏi xem tại sao bà lại quả quyết Johnny Palica là hung thủ như vậy đó sao? Đó ít ra cũng là dấu hiệu chỉ cho thấy bà ấy cố che dấu thủ phạm thực sự, hậu quả là bà ấy có dính dáng đến án mạng.
Cũng rõ ràng là Ellen Morison đã vào tiệm thuốc lúc bất tiện cho họ. Bà Sawyer cùng với bạn trai đã âm mưu một kế hoạch thật đơn giản và hữu hiệu để giết người chồng bà đã chung sống bấy lâu nay, có một doanh nghiệp sinh lợi. Họ sắp xếp một tình huống trong đó chỉ có bà Sawyer là người làm chứng duy nhất và gần nhất, sẽ mô tả một hung thủ chẳng giống tình nhân của bà một điểm nào. Cô Morison đã vào tiệm đúng lúc tên sát nhân quyết định ra tay và làm hắn hoảng loạn đến độ không tạm hoãn được.
Bởi vậy vào đêm xảy ra án mạng, bà Sawyer giả vờ đau khổ và kinh hoàng, vờ không hiểu các câu hỏi của McReynolds để xem cô Morison còn nhớ được những chi tiết nào về hung thủ. Nếu bà mô tả nhân dạng hung thủ khác xa với cô Morison có thể làm cảnh sát nghi ngờ và điều tra rộng hơn, bởi vậy bà chọn ngay nhân dạng như Morison và chỉ ra Johnny Palica.

Bà làm như vậy để che dấu tội lỗi của mình và để đánh lạc hướng điều tra của cảnh sát. Sau đó cặp vợ chồng làm chứng lại đồng ý với bà. Johnny Palica lại không chứng minh được để người ta tin mình ở đâu lúc xảy ra án mạng. Thế rồi mọi sự xảy ra có lợi cho bà Sawyer và tình nhân. Cho đến khi hắn đã làm một điều duy nhất lẽ ra không bao giờ nên làm là đến thăm bà Sawyer vào lúc đêm rất khuya, ngay trong cái phòng Cochran và McReynolds đã phỏng vấn bà ấy vài tuần trước.
Ngay khi Cochran nhận ra tòa nhà, anh đã tự hỏi một câu hỏi rất tự nhiên. Người đàn ông này có quan hệ như thế nào với bà Sawyer nhỏ nhắn dễ thương? Chỉ một câu trả lời khả dĩ chấp nhận được vào giờ này. Câu trả lời cũng giải thích tại sao bà Sawyer chỉ ngay Johnny Palica và tại sao Ellen Morison từ chối không nhận anh ta là hung thủ mà cô trông thấy. Bây giờ Cochran không hiểu nổi tại sao lúc đó anh không xét những khía cạnh đặc biệt đó? Và ngay cả sau khi McReynolds và hai cảnh sát nữa đã bắt bà Sawyer và tình nhân của bà - đang đỗ lỗi, cắn quẩn nhau om sòm - dẫn vào xe chở về phòng cảnh sát quận, mà vụ việc vẫn làm khổ Cochran vi mọi chi tiết dẫn chứng tỏ sự ngu ngốc của cá nhân anh.
- Vì trong những vụ tương tự chúng tôi đều xác minh, kiểm tra kỹ vợ hoặc chồng - Anh nói với Ellen Morison vẫn đợi anh ở tầng trệt - Chúng tôi luôn kiểm tra nếu không có cô làm chứng giống như lời khai của bà ấy. Vả lại khi cô chứng kiến mọi sự trước mắt, chúng tôi còn cần hỏi gì nữa? Hỏi thêm để làm gì và không có lý.

- Nhưng em nghĩ sự việc đúng như vậy mà.- Ellen Morison trông mệt mỏi và khổ sở. - Bây giờ mọi sự đã ổn rồi. Nếu cặp gian phu dâm phụ đó làm anh mắc cỡ cho cả loài người thì quá đáng. Chỉ là... - Miệng cô méo lại - Đưa em ra khỏi đây đi, em sợ chỗ này lắm. Em không muốn nghe một tí gì về vụ này nữa. Tất cả em chỉ...
Cô rùng mình, Cochran dỗ dành trấn an cô. Trong loạt sự việc này em đã đạt một trình độ tinh thần có nhiều triển vọng. Một điều quan trọng em làm được là không để sự việc đen tối này làm em mất thăng bằng, trở thành khinh mạn cuộc đời, không để... Anh im bặt vì mới đây thôi đã nói ngược lại. Thôi, quên nó đi, anh nghĩ mà giận mình. Ai mà nghĩ việc lại xảy ra như thế chứ? Ai mà muốn như vậy? Anh chỉ có thể nói được với Morison đến đây thôi. Sự việc vẫn thường xảy ra tốt đẹp. Và giờ đây, sự việc không tốt đẹp sao?
Anh không nhận ra ngay chưa bao giờ anh nói chuyện với ai sâu xa như vậy. Khi nhận ra, anh cho là có ý nghĩa gì đây. Anh mời cô vào xe, ân cần vỗ bàn tay cô và thì thầm với cô.
Mới đầu anh lái xe đi vòng vòng, anh cảm thấy an tâm, tự tin hơn. Về tới nhà anh ngủ được ngay mười bốn giờ liền, không gì khuấy động, kể cả xe lấy rác và xe cộ lưu thông buổi sáng. Anh thức dậy, câm thấy khỏe khoắn, thoải mái và nghĩ tới Morison. Nghĩa là, nghĩ tới cô ấy là sao? Nhưng anh biết ngay. Biết ngay sau khi đặt xong câu hỏi với mình.
anh sex
đọc truyện sex hay
phim sex hay
truyện ma kinh dị